Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

Viêm tắc tia sữa – nỗi ám ảnh các bà mẹ sau sinh

Dễ dẫn đến áp xe
Theo bác sĩ Phạm Văn Hùng, tắc tia sữa là hiện tượng hệ thống ống tuyến sữa bị tắc do vậy sữa không chảy ra được. Hiện tượng này thường xảy ra ở các sản phụ trong những ngày đầu sau sinh và trong thời kỳ nuôi con bằng sữa mẹ.
Nếu bị tắc tia sữa không điều trị kịp thời và đúng phương pháp người mẹ có thể bị viêm tuyến vú , áp-xe tuyến vú, lâu dần trở thành các dải xơ hóa hay u xơ tuyến vú. Ngoài ra, tắc tia sữa còn làm cho quá trình tạo sữa bị ảnh hưởng, dần dần người mẹ ít sữa hoặc sẽ mất sữa.
Theo quy trình sữa được sản xuất ra từ các nang sữa, theo các ống dẫn đổ về xoang chứa sữa ở phía sau quầng vú, dưới tác dụng kích thích của động tác bú mút của trẻ, sữa sẽ chảy ra ngoài. Tuy nhiên nếu trong lòng ống dẫn bị hẹp bít lại sữa sẽ không thể thoát ra ngoài được. Tại chỗ tắc sẽ dần tạo thành hòn cục do hiện tượng sữa đông kết. Trong lúc đó, sữa vẫn tiếp tục được tạo ra, làm cho các ống dẫn trước chỗ tắc ngày càng bị căng giãn. Hiện tượng này gây chèn ép các ống dẫn sữa khác, tạo ra một vòng xoắn bệnh lí, làm tình trạng tắc sữa ngày càng nặng thêm.
Hiện tượng tác tia sữa có rất nhiều nguyên nhân như người mẹ không cho trẻ bú sớm và thường xuyên, cho con bú không vệ sinh sạch sẽ tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập từ ngoài vào thông qua đầu vú rồi dẫn đến hệ thống ống dẫn sữa nhiễm khuẩn sẽ bị hẹp gây cản trở sữa thoát ra ngoài điều này gây ra việc tắc tia sữa .
Đặc biệt, ở những sản phụ có đầu ti thụt vào hoặc bằng phẳng quá, to quá, biến dạng, khiến bé bú khó khăn nên bé sẽ cắn mút đầu ti, hình thành nên những vết thương nhỏ và loét, dần dần dưới kích thích bú sữa của bé, đầu ti của sản phụ sẽ nứt rộng hơn hoặc sữa không thông nhưng con vẫn cứ bú, nhai đi nhai lại, gây tổn thương. Khi đầu vú đã nứt thì càng bú càng đau, sản phụ sẽ cho con bú không đều, thậm chí không cho bú nữa, khi đó một lượng lớn sữa, các sản vật của sữa sau khi phân giải là nơi thích hợp nhất cho vi khuẩn bên ngoài xâm nhập được vào tuyến sữa qua vết nứt của đầu vú, sẽ sinh sôi nhanh chóng trong tuyến sữa, dẫn đến viêm tắc tuyến sữa.
Sản phụ bị căng thẳng tinh thần trong thời kỳ cho con bú hoặc chế độ dinh dưỡng cho người mẹ chưa hợp lý… cũng làm tăng nguy cơ tắc tia sữa.
Viêm tắc tia sữa – nỗi ám ảnh các bà mẹ sau sinh 1
Rất nhiều bà mẹ vì thiếu kinh nghiệm cho con bú và chăm sóc bầu sữa mẹ làm dẫn tới hiện tượng viêm tắc tia sữa. Ảnh minh họa
Một số cách điều trị viêm tắc tia sữa
BS Hùng chia sẻ, dấu hiệu đầu tiên của hiện tượng tắc sữa là bầu vú căng to hơn so với bình thường và càng lúc càng tăng dần, đau nhức và không tiết sữa hoặc ra ít, vắt cũng không ra. Có cảm giác mệt mỏi, nhức đầu, sốt, đau tăng lên nếu sữa đã ứ đọng nhiều ở bên trong. Khi sờ sẽ thấy có những khối tròn bề mặt gồ ghề, mật độ cứng với nhiều kích thước khác nhau, khi chạm vào rất đau.
Vì thế khi phát hiện ra bầu vú có dấu hiệu căng to hơn so với bình thường và càng lúc càng tăng dần thì phải chú ý quan sát xem bề mặt vú có đỏ và sờ có đau. Nếu có, thì đó có thể là những triệu chứng đầu tiên của hiện tượng tắc tia sữa.
Khi thấy dấu hiệu của tắc tia sữa chúng ta nên dùng 1 bàn tay đè ép bầu vú lên thành ngực hoặc dùng 2 bàn tay ép vào nhau. Vừa ép vừa day sẽ làm tan các vị trí sữa đã đông kết. Bởi vì chỉ có lực day ép mới có tác dụng đối với vị trí tắc nằm ở sâu trong bầu vú và mới có thể làm tan sữa đã đông kết, day từ từ theo vòng tròn, tăng dần, khoảng 20 – 30 lần, rồi lại làm ngược lại làm nhiều lần trong ngày.
Sau khi day, ép vẫn thấy ngực căng tức, bạn có thể chườm nóng, dưới tác dụng của nước nóng (không quá nóng dẫn đến bỏng) sữa đông kết tan dần, khai thông dòng chảy tạo điều kiện cho sữa mới chảy ra. Cùng với các động tác mát-xa hỗ trợ, tình hình sẽ dần được cải thiện và chúng ta dùng kết hợp với máy hút sữa thường xuyên để hút sữa ra.
Hay tại một số bệnh viện hiện nay đã có khoa Vật lý trị liệu sử dụng đèn hồng ngoại và đèn chiếu ánh sáng xanh giúp các mẹ bị tắc tia sữa, cương sữa… làm mềm vú, thông tia.
Bên cạnh đó, dân gian có rất nhiều bài thuốc chống tắc tia sữa điều này các mẹ cần nên tham khảo các bác sĩ đông y.
Phòng ngừa tắc tia sữa
Để phòng ngừa viêm tắc tia sữa sau sinh, quan trọng nhất là phòng nứt đầu vú. Trong thời kỳ đầu mang thai, nếu núm vú thụt vào hoặc bằng phẳng thì chị em cần phải vê kéo dần ra ngoài hằng ngày nhất là từ khi mang thai ở tháng thứ 5.
Tiếp đến, cần cho con bú đúng giờ, mỗi lần bú không quá dài, khoảng 10 – 15 phút là đủ, không để trẻ ngậm đầu ti ngủ. Mỗi lần cho bú phải bú hết sạch bên này rồi mới đổi sang bên kia, nếu bú không hết thì vắt ra ngoài.
Mỗi lần cho bú, sản phụ cần giữ thật sạch đầu vú, nhất là ở các kẽ của núm vú. Trước khi cho con bú phải lau sạch và vắt một vài giọt sữa đầu bỏ đi, khi bú xong lại phải lau sạch, khô. Nếu khi vắt sữa thấy một tia nào tắc hoặc chảy không thành tia thì phải xoa vú cho mềm, sau đó vắt mạnh để thông sữa khi cho bú, hoặc là phải dùng máy vắt sữa thường xuyên như vậy sẽ tránh được tắc tia sữa.
Nên uống nhiều nước, ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng thịt, cá, trứng sữa và các chất xơ từ rau quả, hạn chế ăn chất béo bão hòa…

Một số bệnh thường gặp khi mang thai

Trong thời kỳ mang thai, đa số thai phụ có thể gặp những trục trặc như: buồn nôn, đau lưng, khó thở… Nhận biết được dấu hiệu nào thì có thể nguy hiểm đến mẹ và bé cần phải đi khám là vô cùng quan trọng. Bài viết sau đây cung cấp những kiến thức về những bệnh lý thường mắc khi mang thai:
Đau đầu: Khi mang thai, cơ thể người phụ nữ có nhiều thay đổi để thích nghi với môi trường mới, nội tiết tố trong cơ thể thay đổi khiến phụ nữ dễ mệt mỏi, cáu gắt và đau đầu. Đây là triệu chứng thường gặp nhưng không nghiêm trọng; nếu quá khó chịu, bạn có thể uống nhiều nước trái cây. Mát-xa cũng giúp thư giãn các cơ thần kinh, làm dịu những cơn stress. Tuy nhiên, nếu đau đầu kèm theo các triệu chứng khác như: mất ngủ, khó chịu… thì cần đến cơ sở y tế để được khám và điều trị.
Một số bệnh thường gặp khi mang thai
Đau lưng: Trong suốt thời kỳ mang thai, cơ thể người phụ nữ tiết ra các hoóc-môn làm căng các dây cơ bụng và giảm hoạt động của các dây chằng ở vùng thắt lưng và xương chậu. Lưng của thai phụ phải gánh tất cả trọng lượng của em bé khiến cho lưng cong về phía trước. Càng về cuối thai kỳ, thai nhi càng phát triển, lưng càng đau mỏi hơn. Để giảm đau lưng và hạn chế những nguy cơ ảnh hưởng tới sức khỏe của mẹ và bé, thai phụ cần có chế độ lao động và nghỉ ngơi hợp lý, vận động nhẹ nhàng. Hạn chế ngồi hoặc đứng quá lâu. Nên nằm nghiêng, không nên nằm ngửa khi ngủ. Có thể đặt thêm gối ở giữa hai đầu gối và vùng xung quanh bụng hoặc sử dụng gối ôm dài. Ngồi hay đứng cần thường xuyên thay đổi tư thế.
Táo bón - trĩ: Táo bón - trĩ trong lúc mang thai là bệnh thường gặp do thay đổi nội tiết và phải bổ sung canxi và sắt, cũng như việc ít vận động hơn bình thường khiến gia tăng bệnh trĩ do táo bón. Để khắc phục tình trạng trên thai phụ nên ăn các thức ăn có nhiều chất xơ như: rau, hoa quả, giảm ăn cay, nên uống nhiều nước, vận động nhiều. Đừng rặn mạnh khi đại tiện. Nên tập đi đại tiện mỗi ngày, muốn dùng thuốc nhuận tràng hay thuốc bôi hậu môn thì phải hỏi ý kiến bác sĩ.
Chóng mặt, hoa mắt: Do chức năng co giãn huyết quản không ổn định, máu tập trung nhiều ở dưới chân dẫn đến hiện tượng chóng mặt hoặc lượng máu về thấp. Đặc biệt là khi đứng lâu không cử động được ở nơi đông người, những nơi không khí không trong lành thì cũng rất dễ phát sinh hiện tượng quáng mắt, chóng mặt. Đặc biệt nếu đứng lâu, ngồi lâu làm trì trệ máu ở dưới chân và trong tim dễ dẫn đến thiếu máu ở não gây nên chóng mặt, đây là điều thường thấy ở phụ nữ mang thai ở thời kỳ đầu… Để khắc phục, thai phụ không ngồi dậy hay đứng lên đột ngột mà vận động từ từ để não khỏi thiếu máu đột ngột. Hãy tăng cường các thức ăn bổ máu như: thịt, cá, trứng, sữa, lạc, rau xanh màu sẫm, có thể uống thêm viên sắt. Nếu có lúc cảm thấy muốn ngất, bạn hãy nằm xuống hoặc ngồi cúi đầu giữa hai đầu gối để máu lên não nhiều hơn. Nếu chóng mặt, hoa mắt kéo dài bạn cần đi khám để được điều trị thích hợp.
Chuột rút: Chuột rút là do thiếu ôxy đến cơ, nguyên nhân thứ hai là thiếu nước và muối ăn. Các rối loạn điện giải có thể gây ra chuột rút, đặc biệt là hạ canxi máu (thiếu canxi) hoặc hạ kali máu (thiếu kali). Khi bị chuột rút nên hít thở sâu, làm giãn cơ, duỗi thẳng chân, xoa bóp nhẹ lên chỗ bị đau. Muốn tránh chuột rút, đừng nằm hay đứng lâu. Cần bổ sung khoáng chất canxi, muối khoáng, uống nhiều nước.
Phù bàn chân và mắt cá: Thỉnh thoảng nên nằm nghỉ, gác chân cao. Uống nước nhiều giúp cơ thể thải nước tốt hơn. Đừng ăn mặn quá, nếu thấy cả tay và mặt cũng phù thì đó là dấu hiệu đáng ngại, cần đi khám ngay.
Bác sĩ Lê Thị Thu Hà

Acid folic - dưỡng chất thiết yếu cho bà bầu

Acid folic (folate) còn gọi là vitamin B9, là một loại vitamin cần thiết cho dinh dưỡng hằng ngày của cơ thể người, giúp tổng hợp ADN và là một trong những vi chất quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của bào thai, nhất là hệ thần kinh.
Hậu quả của thiếu acid folic là khiếm khuyết ống thần kinh gây ra thai vô sọ, thoát vị não - màng não, hở đốt sống, gai đôi cột sống và làm tăng nguy cơ dị tật ở tim, chi, đường tiểu, sứt môi, hở hàm ếch...
Vì ống thần kinh của thai nhi được hình thành trong 4 tuần đầu của thai kỳ, nên việc bổ sung acid folic phải được thực hiện ngay từ khi có ý định mang thai cho đến hết 3 tháng đầu của thai kỳ. Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, bổ sung acid folic giúp giảm được từ 50 - 70% các dị tật do khiếm khuyết ống thần kinh gây ra.
Nhu cầu acid folic
Nhu cầu trung bình 3mcg/kg trọng lượng cơ thể đáp ứng được cho nhu cầu người trưởng thành, tương đương 180 - 200mcg/ngày. Nhu cầu tăng lên trong khi mang thai cần 400mcg/ngày để đáp ứng: sự gia tăng của quá trình phân chia tế bào cũng như tăng kích thước tử cung. Cần cho tổng hợp nhân tế bào acid deoxyribo nucleic (ADN), acid ribo nucleic (ARN), và protein; hình thành nhau thai; số lượng tế bào hồng cầu gia tăng theo khối lượng máu tăng; tăng trưởng của bào thai; và do tăng thải folate qua nước tiểu trong khi mang thai.
Lúc nào cần đảm bảo đủ acid folic?
Khi phát hiện có thai mới bắt đầu đảm bảo đủ khẩu phần ăn có 400mcg acid folic thì đã chậm mà nhất thiết nồng độ acid folic phải đảm bảo đủ cao vào thời điểm mang thai. Vì vậy, điều quan trọng là phải bổ sung đủ acid folic trước khi thụ thai. Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo, tất cả phụ nữ mang thai dự định mang thai phải bắt đầu bổ sung đủ acid folic 3 tháng trước thời điểm dự định có thai.
Những thực phẩm giàu acid folic
Những thực phẩm giàu acid folic
Cơ quan y tế của một số nước như: Mỹ, Anh, Canada đã khuyến nghị: cần đảm bảo chế độ dinh dưỡng có đủ 400mcg acid folic/ngày cho tất cả phụ nữ độ tuổi sinh đẻ bằng các thực phẩm có tăng cường acid folic.
Những phụ nữ nào dễ bị ảnh hưởng của thiếu acid folic?
Tất cả bà mẹ đều có nguy cơ tiềm ẩn sinh ra những em bé bị nứt đốt sống, não úng thủy bất kể họ bao nhiêu tuổi, họ có con lần đầu hay đã có nhiều con khỏe mạnh, ngay cả khi sức khỏe của chính bà mẹ rất tốt. Tuy vậy, có một số bà mẹ bắt buộc phải theo chế độ bổ sung acid folic chặt chẽ như sau:
Tình trạng dinh dưỡng kém, sụt cân, ăn ít, khẩu phần ăn không cân đổi, nghèo vi chất dinh dưỡng.
Có giai đoạn không ăn được do mệt mỏi, lo lắng, hoặc chán ăn.
Mới sảy thai, hay thai chết lưu.
Làm việc vất vả hoặc bị căng thẳng thần kinh trầm trọng.
Phụ nữ đẻ dày, có nhiều con, có thể để lại hậu quả tình trạng dinh dưỡng kém, do vậy rất cần đủ acid folic trước khi thụ thai.
Có tiền sử sinh con khiếm khuyết ống thần kinh.
Nghiện rượu hay thuốc lá.
Làm thế nào để đảm bảo đủ lượng acid folic?
Acid folic có nhiều trong rau lá xanh như: súp lơ xanh, cải làn; trong các loại hạt như: đỗ tương, đỗ đỏ, đỗ đen và các loại hoa quả và nước hoa quả thuộc họ cam quýt. Đặc biệt, acid folic có nhiều trong gan gia súc và gia cầm... Chỉ cần kết hợp hài hòa sản phẩm tự nhiên nêu trên, phụ nữ hoàn toàn có thể phòng tránh tình trạng thiếu hụt acid folic cho cơ thể.
Bà bầu cần bổ sung thực phẩm giàu acid folic
Bà bầu cần bổ sung thực phẩm giàu acid folic
Ngoài việc tăng cường ăn các loại như trên cũng có thể dùng viên bổ sung acid folic. Bổ sung bằng dạng thuốc uống với liều 400mcg acid folic/ngày trước khi mang thai ít nhất là 1 - 3 tháng, và uống acid folic kèm với sắt từ khi phát hiện có thai đến sau khi sinh một tháng. Nên lựa chọn sắt có chứa 60mg sắt nguyên tố, acid folic: 400cmg.
Cần lưu ý là acid folic rất dễ bị phân hủy bởi nhiệt độ cao cũng như quá trình chế biến. Khi chế biến, thai phụ không nên ngâm, rửa cũng như nấu quá lâu cũng để tránh thất thoát thành phần acid folic trong nguồn thực phẩm.
10 loại thực phẩm chứa nhiều acid folic
1. Măng tây:
Măng tây là thức ăn có chứa hàm lượng acid folic cao nhất, khoảng 5 cây măng tây có chứa 1.000mcg acid folic. Nhưng khi nấu măng tây, không nên nấu quá lâu, tránh làm tổn thất nguồn acid folic quý giá.
Măng tây có chứa nhiều acid folic
Măng tây có chứa nhiều acid folic
2. Rau chân vịt:
Hàm lượng acid folic của rau chân vịt cũng rất cao, là loại rau nổi bật trong số các loại rau xanh sẫm màu. Loại rau này cũng chứa hàm lượng chất sắt phong phú, là một trong những loại rau lành mạnh thích hợp để các thai phụ ăn nhiều.
3. Súp lơ:
Súp lơ đứng ngay sau măng tây và rau chân vịt, là một trong những loại rau xanh chứa nhiều acid folic nhất. Nó còn chứa hàm lượng chất xơ phong phú, có thể làm giảm táo bón hiệu quả.
4. Lòng đỏ trứng:
Vitamin trong trứng gà chủ yếu tập trung ở lòng đỏ, như acid folic, vitamin A, vitamin D… Nó còn chứa rất nhiều chất sắt, vì vậy đây cũng là nguồn thức ăn tốt để thai phụ bổ sung dinh dưỡng.
5. Đậu tương:
Các loại đậu cũng có chứa acid folic cao trong đó hàm lượng của đậu tương là cao nhất. Đậu tương có rất nhiều chế phẩm, như sữa đậu nành, đậu phụ, đậu phụ khô.
6. Khoai tây:
Khoai tây thuộc loại thân rễ, ngoài acid folic nó còn chứa khoáng chất kẽm thúc đẩy sự phát triển dây thần kinh não của thai nhi, cũng là loại thức ăn thai phụ có thể ăn nhiều.
7. Ngũ cốc thô:
Ngũ cốc chưa qua tinh chế còn giữ nguyên hàm lượng acid folic. Dùng ngũ cốc là món ăn chính, không những có thể tăng lượng hấp thu acid folic, mà còn có thể hấp thu được nhiều chất xơ và một số dưỡng chất khác như các vitamin...
8. Gan động vật:
Gan động vật có chứa acid folic, ngày thường có thể ăn một lượng gan động vật thích hợp, nhưng không nên ăn nhiều, vì gan động vật giàu vitamin A, hấp thu quá nhiều sẽ gây những ảnh hưởng không tốt cho cả mẹ và thai nhi.
9. Cam:
Cam là loại hoa quả có giá trị dinh dưỡng rất cao, đồng thời cũng chứa rất nhiều acid folic. Ngoài ra, chất xơ phong phú của cam còn có thể làm giảm táo bón hiệu quả. Đây là loại hoa quả thai phụ có thể ăn nhiều.
10. Sữa:
Sữa là thức uống bổ sung dinh dưỡng rất lý tưởng, ngoài acid folic, sữa còn chứa rất nhiều protein và canxi. Uống sữa có thể hấp thu được rất nhiều chất dinh dưỡng quan trọng một cách thuận tiện và hữu hiệu cho thai phụ và thai nhi.
Hậu quả của thiếu hụt acid folic với phụ nữ mang thai:
Thiếu máu hồng cầu khổng lồ.
Nguy cơ sảy thai cao.
Sinh non, sinh con nhẹ cân.
Có mối quan hệ giữa việc thiếu acid folic với khuyết tật của ống thần kinh của thai nhi (nứt đốt sống và não úng thủy).
ThS.BS. LÊ THỊ HẢI

Đoán bệnh khi bàn tay luôn lạnh

Rối loạn tuyến giáp thường khiến bạn trở nên nhạy cảm với thời tiết lạnh, trong đó đặc biệt dễ nhận thấy ở bàn chân và bàn tay.
Bạn luôn có bàn tay lạnh, ngay cả vào mùa hè hoặc đeo găng? Hãy chú ý vì đây có thể là dấu hiệu của tình trạng sức khỏe kém, theo naturalnews.
Bàn tay lạnh và suy giáp
Rối loạn tuyến giáp thường khiến bạn trở nên nhạy cảm với thời tiết lạnh, trong đó đặc biệt dễ nhận thấy ở bàn chân và bàn tay. Một xét nghiệm máu có thể phát hiện sự mất cân bằng trong tuyến giáp - tuyến đóng vai trò quan trọng trong sự trao đổi chất của bạn. Dùng iốt có thể ngăn chặn tình trạng này.
taylanh-7919-1415181497.jpg
Ngón tay tê, chuyển màu trắng (đỏ) và lạnh là dấu hiệu của hội chứng Raynaud. Ảnh: dermaamin.com.
Hội chứng Raynaud (ngón tay chân tê, chuyển màu trắng, đỏ khi gặp lạnh)
Raynaud không phải là một căn bệnh nghiêm trọng, nhưng nó khiến máu ít lưu thông đến được các chi. Bệnh có thể được phát hiện với một xét nghiệm đơn giản. Bệnh dẫn đến co thắt mạch máu do lạnh hoặc cảm xúc mạnh.
Thiếu máu
Một trong những triệu chứng phổ biến nhất liên quan đến thiếu máu - thiếu một loại khoáng chất như sắt - là có da lạnh, bao gồm cả bàn tay.
Vấn đề trọng lượng
Điều này liên quan đặc biệt với những người có trọng lượng thấp hoặc nhẹ cân. Đàn ông và phụ nữ quá gầy không thể luôn giữ được sự ấm áp. Ăn thực phẩm chứa nhiều calo có thể giúp giải quyết vấn đề này.
Một nguyên nhân khác dẫn đến bàn tay lạnh là tuần hoàn máu kém. Tuần hoàn máu kém có thể ảnh hưởng đến cả hai chi trên và dưới. Rối loạn nhẹ có thể được giải quyết bằng cách tập thể dục và massage.
Thời tiết lạnh có thể làm trầm trọng thêm các triệu chứng khác như eczema, viêm da, cước, viêm mô tế bào, vết thương và vết loét. Thời tiết lạnh cũng có thể làm đau cơ, khớp ở bàn tay và phần còn lại của cơ thể, thậm chí ảnh hưởng đến sự di chuyển của bạn.
Nếu cảm giác tay lạnh tồn tại dai dẳng, không thay đổi trong cả mùa hè, nếu bạn nghĩ nó liên quan đến bệnh tật, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ.
Trong khi chờ đợi, bạn có thể cải thiện tình trạng bằng cách ăn một số thực phẩm. Ví dụ, gừng làm ấm dạ dày và cải thiện tuần hoàn máu, thúc đẩy ra mồ hôi. Quế làm ấm cơ thể và tăng lưu lượng máu. Ớt, tỏi và hạt tiêu cũng có thể giúp chúng ta ấm lên.
Bạn có thể tập một số bài tập sau để làm tăng lưu lượng máu đến bàn tay. Thực hiện thường xuyên trong ngày:
1. Bắt tay
Ngồi thoải mái trên ghế, đặt tay trước ngực và thư giãn tay. Tiếp đó, thực hiện các động tác nắm, bắt tay liên tục, chú ý thư giãn các ngón tay và cổ tay. Hãy tập mỗi lần từ một đến ba phút.
2. Hít thở sâu
Đặt tay lên bụng của bạn, giữ lưng thẳng và thư giãn. Hít thở sâu, giữ hơi trong 8 giây và thở ra. Hãy hít vào thở ra từ 5 đến 10 lần để làm tăng thời gian lưu thông khí trong cơ thể.
Nếu bạn ở ngoài trời mùa đông lạnh, cách tốt nhất để bảo vệ bàn tay là đeo găng. Găng tay có tác dụng tích cực, nhất là với bệnh nhân mắc Raynaud.

7 dấu hiệu bạn mặc sai cỡ áo ngực

Chọn đúng kích cỡ áo ngực không chỉ giúp bạn tự tin, thoải mái, làm tôn vẻ đẹp của bầu ngực, mà còn giúp bạn bảo vệ và chăm sóc tốt hơn cho phần cơ thể quan trọng này. Dưới đây là những dấu hiệu cho thấy chiếc áo ngực bạn đang mặc không đúng kích cỡ, kiểu dáng hoặc không phù hợp với bạn.
Có vết hằn trên da
Sau một ngày dài hoạt động, bạn cảm thấy bức bối với chiếc áo ngực. Khi về nhà, bạn thấy vết hằn trên da và rộp đỏ, điều đó chứng tỏ bạn đang mặc áo quá chật. Bạn sẽ thoải mái hơn khi chuyển sang cỡ áo khác, lớn hơn (32,34,36). Mặt khác, nếu gọng đâm vào da thì đó là cúp ngực quá nhỏ, bạn cũng nên chuyển sang áo cúp ngực lớn hơn (A, B, C, D).
Cúp ngực mấp mô
Nếu bạn thấy mấp mô trên cúp áo ngực (dễ thấy nhất khi mặc áo phông), lý do phổ biến nhất là cúp quá to. Những vết gấp của vải dư ra nổi lên và tạo thành cục nhô lên. Lý do khác là có thể do máy giặt, vì vậy cần tránh điều này bằng cách giặt tay nhẹ nhàng để áo ngực được bền hơn.
bra-2652-1415156191.jpg
Ảnh minh họa: Topdrawerlingerie.com.au.
Dây áo kéo vai trễ xuống hoặc tụt khỏi vai
Đây là vấn đề phổ biến khiến dây áo dễ bị bật khóa. Dây áo ngực rất quan trọng để toàn bộ áo vừa với bạn. Nếu dây kéo vai bạn xuống, có vẻ như bạn chưa điều chỉnh cho vừa. Hãy điều chỉnh chiều dài dây vừa vặn, đừng để đến mức thít vào da. Nếu dây áo đã quá dãn, bạn cần thay dây hoặc đổi áo ngực mới.
Phần giữa áo không sát vào da
Nếu phần giữa dây áo nằm xa da bạn, thì phần cúp ngực quá nhỏ. Đây là một trong những vấn đề phổ biến nhất. Chuyển sang cỡ cúp ngực có thể sửa được vấn đề này nhưng vì không có hai cơ thể nào giống nhau nên đôi khi kiểu áo ngực có thể là nguyên nhân. Bạn nên cố gắng tìm kiểu áo vừa vặn hơn nếu chuyển sang cỡ khác không giải quyết được.
Dây áo không song song với mặt đất
Phần sau của dây áo phải thẳng hàng qua lưng bạn và song song với mặt đất. Nếu nó cong trên lưng thì tức là dây áo quá chật hoặc cũng có thể quá rộng. Bạn cần giảm xuống một size hoặc tăng lên tùy theo trường hợp.
Phần ngực tràn ra ngoài cúp ngực
Nếu có bất cứ phần ngực nào tràn ra bên trên hay sang một bên cúp áo ngực - dù chỉ là một chút - bạn chắc chắn cần phải tăng lên một cỡ. Cúp áo ngực cần phải bao phủ hết toàn bộ ngực.
Có cảm giác đau
Nếu áo ngực của bạn gây đau, chắc chắn đó không phải cỡ vừa vặn. Thông thường phụ nữ nghĩ rằng khó tránh khỏi việc không thoải mái khi mặc áo ngực nhưng điều này không đúng trong mọi trường hợp. Một chiếc áo ngực vừa vặn đủ thoải mái để bạn không phải để ý đến.

Không tự ý bổ sung nội tiết tố

Lo thiếu hụt nội tiết (hormon), nhiều chị em tự ý bổ sung nội tiết theo nhiều cách mà không có sự tư vấn và theo dõi của bác sĩ. Điều này khiến tình trạng thiếu hụt càng trở nên trầm trọng, làm cho sức khỏe, sắc đẹp và sinh lý ngày càng bị suy giảm.
Người phụ nữ chỉ có thể khỏe, đẹp khi bộ hormon sinh sản - sinh lý trong cơ thể họ được sản xuất đầy đủ, hài hòa với nhau. Bộ nội tiết này gồm nhiều loại như GnRH, FSH, LH, estrogen, progesterone, testosterone… được sản sinh, điều tiết một cách hài hòa kỳ diệu bởi hệ trục não bộ - tuyến yên - buồng trứng.
Theo thời gian, hệ trục trở nên suy yếu, bắt đầu hoạt động lệch lạc khi người phụ nữ bước qua tuổi 40. Nhiều chị em, tình trạng này xuất hiện khi chưa qua ngưỡng 35 tuổi.
Không tự ý bổ sung nội tiết tố
Lúc này, bộ hormon trong cơ thể phụ nữ mất đi sự hài hòa, gắn kết và hậu quả là cơ thể phải gánh chịu nhiều triệu chứng đáng sợ của giai đoạn tiền mãn kinh - mãn kinh như: bốc hỏa, mất ngủ, tính tình thay đổi, gặp các vấn đề về tình dục, tăng nguy cơ bệnh tim mạch, nhăn da và rụng tóc…
Cho rằng nội tiết tố gặp vấn đề, nếu không bổ sung các chất cân bằng nội tiết tố thì tình trạng này sẽ càng trở nên trầm trọng. Với hy vọng cải thiện được tình hình, nhiều người đã tự mua các loại thuốc được quảng cáo là có chức năng bổ sung nội tiết tố nữ. Tuy nhiên, lợi đâu chưa thấy, chỉ thấy tình trạng ngày càng trầm trọng hơn.
Điều đáng nói là việc tự ý bổ sung nội tiết tố sẽ khiến cho cơ quan sản sinh bộ hormon tự nhiên của cơ thể là hệ trục não bộ - tuyến yên - buồng trứng bị “ngủ quên” do nhận thức sai lệch về tình trạng “no ảo” các hormone này. Việc bổ sung theo cách ngoại sinh khiến hoạt động của hệ trục yếu dần và tình trạng thiếu hụt nội tiết nội sinh (do cơ thể tự sinh ra) ngày càng trầm trọng. Việc bổ sung theo cách ngoại sinh khiến hoạt động của hệ trục yếu dần và tình trạng thiếu hụt nội tiết nội sinh (do cơ thể tự sinh ra) ngày càng trầm trọng.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thiếu hay thừa một hormon nào cũng đều để lại những hậu quả đáng ngại lên các cơ quan khác như não, tim, gan, thận…, thậm chí có thể gây ung thư. Vì thế, chị em phụ nữ không nên tự ý bổ sung nội tiết tố mà cần đi khám tại các cơ sở y tế chuyên khoa để được thăm khám, tư vấn thích hợp. Ngay cả các bác sĩ cũng cần phải cân nhắc, xét nghiệm kỹ càng từng trường hợp rồi mới tùy vào cơ thể từng người, tùy từng loại nội tiết mà chỉ định bổ sung cho phù hợp.
Bác sĩ Lê Thu Hà

4 điều "cấm" làm trong phòng ngủ bạn phải biết

Ngủ không đủ giấc không những ảnh hưởng đến bản thân mà còn ảnh hưởng tới mối quan hệ và công việc của bạn...

Giấc ngủ ngon đóng vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe, nhưng ngày càng nhiều người khó ngủ. Ngủ không đủ giấc không những ảnh hưởng đến bản thân mà còn ảnh hưởng tới mối quan hệ và công việc của bạn.
4 điều cấm làm trong phòng ngủ bạn phải biết
Điều "cấm" làm trong phòng ngủ.
Lăn qua lăn lại vì khó ngủ
Nghe có vẻ hơi “điên rồ” nhưng sự thật là bạn nên ra khỏi giường thay vì nằm lăn qua lăn lại nếu muốn có được giấc ngủ ngon. Nằm dài ở đó và nhìn chằm chằm vào đồng hồ chỉ khiến bạn càng thêm lo lắng về việc khó ngủ của mình. Thay vào đó, hãy thử làm việc gì đó nhẹ nhàng cho đến khi thật sự mệt mỏi. Chỉ khi đó bạn mới nên quay trở lại giường.
Làm việc
Hoặc kiểm tra email, đăng ảnh lên Instagram và lướt Facebook . Những thiết bị chúng ta thường dùng đều phát ra những bước sóng của ánh sáng xanh, làm xáo trộn sự sản sinh tự nhiên của hoocmon kích thích giấc ngủ.
Nếu đang trong tình trạng này thì bạn đừng lo, có hơn 95% dân số sử dụng những thiết bị điện tử hàng giờ trước khi đi ngủ. Tự đặt ra giờ giới nghiêm cho bản thân sẽ giúp bạn dễ dàng từ bỏ thói quen có hại này hơn.
Bồng bế vật nuôi
Khi còn nhỏ, bạn luôn muốn có một con chó Chihuahua để ngủ cùng mình, và điều đó đã trở thành hiện thực. Thật tuyệt vời khi bạn bế một con vật chỉ nặng hơn 2,7 kg như thế, nhưng cũng thật nguy hiểm nếu như bạn làm phiền đến giấc ngủ của nó. Hơn nữa, nếu bạn ngủ chung với vật nuôi trên giường thì chắc chắn nó sẽ không để cho bạn ngủ yên đâu.
Cãi vã
Chắc hẳn bạn đã từng nghe câu “Đừng đi ngủ trong trạng thái bực bội”. Điều đó hoàn toàn chính xác. Các nghiên cứu khoa học chỉ ra rằng ngủ ngay sau khi cãi vã sẽ duy trì trạng thái đó của bạn cho đến khi bạn thức dậy. Sẽ có hại cho cơ thể chúng ta nếu ngủ trong trạng thái như thế. Đây là cơ chế phòng vệ. Vì vậy, bạn sẽ rất khó ngủ khi vừa xung đột với ai đó. Cách tốt nhất là giải quyết xung đột hoặc giải tỏa suy nghĩ tiêu cực trước khi lên giường đi ngủ.
Theo Phụ nữ Today

Có thể sinh thường nếu trước đó sinh mổ?

TS-BS Huỳnh Thị Thu Thủy - Phó giám đốc Bệnh viện (BV) Từ Dũ cho biết, tỷ lệ sinh mổ tại Việt Nam có lúc lên đến 60 - 70%, càng làm tăng thêm tỷ lệ sinh mổ lần hai, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe sản phụ. Hiện nay, các BV phụ sản lớn như Từ Dũ, Hùng Vương đều khuyến khích, hỗ trợ sản phụ sinh thường sau khi đã mổ lấy thai. Việc sinh thường giúp sản phụ tránh được những biến chứng từ việc mổ nhiều lần như: cắt tử cung, tổn thương ruột hay bàng quang, truyền máu, nhiễm trùng...
Mổ lấy thai lặp lại và sinh thường sau mổ lấy thai đều có những nguy cơ như xuất huyết, nhiễm trùng, thuyên tắc do huyết khối… Sinh ngả âm đạo nếu được tư vấn cẩn thận sẽ giúp sản phụ giảm xuất huyết, nhiễm trùng và thời gian phục hồi nhanh hơn so với mổ lấy thai lặp lại.
Có thể sinh thường nếu trước đó sinh mổ?
Sinh thường sẽ giúp sản phụ phục hồi nhanh hơn so với sinh mổ. Ảnh minh họa: Internet
Nhiều nghiên cứu cho thấy, 60 - 80% sản phụ có thể sinh thường nếu trước đó sinh mổ. Tuy nhiên, các bác sĩ khuyến cáo, phụ nữ đã mổ lấy thai một lần thường được khuyên ngừa thai khoảng 12 tháng sau đó. Nhiều trường hợp sau mổ lấy thai vẫn có thể sinh thường vào lần mang thai sau, tùy thuộc vào từng cá nhân và tiền sử sản khoa trước đó. Ví dụ, những phụ nữ phải mổ lấy thai lần trước do bất thường trong chuyển dạ thì cơ hội sinh thường sẽ ít hơn so với những phụ nữ mà nguyên nhân mổ lấy thai lần trước không còn tồn tại (ngôi mông). Sản phụ cũng có thể sinh thường nếu lần mang thai sau, thai phụ và thai nhi phát triển bình thường, trừ khi trong quá trình theo dõi và chuyển dạ, các bác sĩ phát hiện các bất thường khác: con to, ngôi thai không thuận, suy tim thai…
Đặc biệt, những phụ nữ đã từng có lần sinh thường sẽ có nhiều cơ hội sinh ngả âm đạo sau mổ lấy thai hơn những phụ nữ không có tiền căn sinh thường. Những sản phụ có nguy cơ cao không thể sinh thường sau khi mổ lấy thai gồm: mổ lấy thai với đường mổ cổ điển hay mổ chữ T, tiền căn vỡ tử cung hay phẫu thuật mở rộng qua đáy tử cung; mẹ lớn tuổi, mẹ bị thừa cân - béo phì, thai to (cân nặng từ 4 - 4,5kg), thai già tháng (từ 40 tuần trở lên), mẹ bị tiền sản giật, thời gian giữa hai lần sinh quá ngắn, vết mổ lấy thai bị nhiễm trùng sau mổ dẫn đến nguy cơ nứt vết mổ khi có thai lần hai.
Theo Báo Phụ nữ tp.HCM

Cách thở và rặn sinh trong cuộc chuyển dạ

Chuyển dạ là một quá trình đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ thai nghén, sau 38 - 40 tuần mang thai. Chuyển dạ là một quá trình vì thời gian chuyển dạ thường kéo dài từ 6 - 12 giờ ở người con rạ và thời gian này kéo dài tăng gấp đôi ở người mới sinh con lần đầu, nghĩa là từ 12 - 24 giờ tính từ khi xuất hiện cơn co tử cung chuyển dạ đầu tiên.
Cơn co và thời điểm rặn sinh

Lúc bắt đầu chuyển dạ thì cơn gò tử cung thường ngắn, kéo dài khoảng 10 đến 15 giây và tần số xuất hiện thường dài như 10 phút có một cơn co. Các cơn co này thường gây đau nhẹ. Sau đó, càng gần đến lúc rặn sinh thì cơn co kéo dài hơn khoảng 15 - 20 giây rồi 20 - 30 giây, và lúc cơn co kéo dài khoảng 30 - 40 giây là lúc em bé sắp ra đời. Sự xuất hiện các cơn co cũng thường xuyên hơn, 10 phút sẽ có 3 cơn co và khi 10 phút có hơn 3 cơn co và sản phụ đau bụng dữ dội là thời điểm rặn đã đến.
Cách thở và rặn sinh trong cuộc chuyển dạ
Thở và rặn sinh đúng cách để có cuộc sinh tốt đẹp. Ảnh: TL
Như vậy, cơn co tử cung mang tính chất chu kỳ, với mỗi một cơn gò tử cung thường có 3 thì: thì co, thì kéo dài và thì nghỉ. Ở thì co, thai phụ thường cảm giác bụng cứng lên, cảm giác đau đớn tăng dần, đau đạt đỉnh điểm ở thì kéo dài, sau đó cảm giác đau sẽ giảm dần và không cảm thấy đau nữa ở thì nghỉ. Khoảng cách giữa các cơn gò tử cung là thì nghỉ, đó là những thời điểm để thai phụ phục hồi sức lực, chuẩn bị tập trung vào thì co và thì kéo dài để chịu đau và rặn có hiệu quả. Như vậy, đau rồi hết đau, rồi đau, rồi hết đau… lặp đi lặp lại cho đến khi em bé được sinh ra.
Ngày nay, với những tiến bộ của khoa học, đã có phương pháp gây tê “đẻ không đau”. Tuy nhiên, không phải tất cả thai phụ nào cũng đều được đẻ không đau. Vì đẻ không đau chỉ thực hiện được ở những bệnh viện lớn có trang bị phương tiện gây mê hồi sức tốt và có đội ngũ bác sĩ gây mê có kinh nghiệm và cũng có những trường hợp thai phụ có chống chỉ định gây tê đẻ không đau như bệnh lý cột sống, tăng huyết áp… Và mặc dù đẻ không đau nhưng thai phụ vẫn cần biết cách thở và cách rặn sinh thì cuộc sinh mới tốt đẹp, mẹ tròn con vuông được. Do đó, thai phụ cần biết cách thở và biết cách rặn có hiệu quả, không rặn sớm quá hay rặn không đúng sẽ làm cho cuộc chuyển dạ kéo dài gây nguy hiểm cho cả hai mẹ con như: Bé bị ngạt trong bụng mẹ, mẹ bị mệt, tổn thương phức tạp đường sinh dục, chuyển dạ kéo dài gây băng huyết sau sinh…
Cách thở được hướng dẫn như sau:
Dựa theo tính chất chu kỳ của cơn gò tử cung, sản phụ sẽ chú ý, tập trung vào hơi thở:
Khi bắt đầu cảm nhận đau, nghĩa là khi bắt đầu thì co, có cơn co xuất hiện thai phụ nên tập trung vào hơi thở để tập thở nhanh dần. Hít vào bằng mũi và thở ra bằng miệng. Cơn đau càng tăng thì thở càng nhanh hơn và nông hơn, tần suất nhịp thở tăng dần ở thì kéo dài. Cảm nhận đau càng nhiều thì thở càng nhanh hơn. Ở thì thở ra làm sao tạo được tiếng rít gần như tiếng huýt sáo nhỏ. Đến khi cảm nhận bớt đau thì thở chậm lại và thở sâu hơn, tần suất nhịp thở giảm dần.
Ở thì nghỉ giữa các cơn co tử cung, thai phụ nên thở sâu và nhẹ nhàng bình thường để lấy lại năng lượng đã bị mất đi khi thở nhanh, nông ở thì co và tích trữ năng lượng cho lần thở của cơn đau kế tiếp…, nên thư giãn toàn thân là tốt nhất.
Khi bác sĩ cho phép được rặn, thai phụ nên tập rặn đúng cách thì mới có hiệu quả đẩy thai ra khỏi bụng mẹ và ống sinh dục được. Rặn không hiệu quả, giai đoạn xổ thai kéo dài sẽ làm mất sức người mẹ và em bé có thể bị ngạt ngay khi chưa kịp sinh ra.
Cách rặn được hướng dẫn như sau:
Khi cảm nhận được cơn co tử cung: Bụng gò cứng dần và xuất hiện cơn đau: Thai phụ nên hít vào một hơi thở thật sâu. Sau đó nín thở, miệng ngậm chặt, hai tay nắm chặt vào hai thành của bàn sinh, hai chân đạp mạnh vào hai ống treo cổ chân của bàn sinh, dồn hơi rặn mạnh để đẩy hơi xuống vùng bụng dưới giúp tống xuất thai nhi ra ngoài. Khi cảm thấy sắp hết hơi nhưng vẫn còn đau có thể hít vào một hơi khác và rặn tiếp tục cho đến khi không cảm thấy đau bụng nữa. Chú ý là trong khi rặn, thai phụ phải giữ sao cho lưng thẳng, áp sát vào bề mặt bàn sinh và phần mông phải cong lên phía trước. Đặc biệt là phải giữ để khi rặn thì miệng không được phát ra bất cứ âm thanh nào. Giữa 2 cơn co tử cung, hết đau thì thở sâu điều hòa, dưỡng sức để tập trung vào đợt rặn kế tiếp.
Ở người sinh con so, cuộc rặn sinh như vậy thường kéo dài từ 30 - 40 phút chia thành nhiều đợt rặn sau đó mới xổ thai được. Ở người con rạ thì cuộc rặn ngắn hơn từ 20 - 30 phút.
Thì xổ đầu thai nhi là quan trọng nhất. “Đầu xuôi đuôi lọt”, thường là như vậy. Bác sĩ sẽ tiếp tục đỡ sinh, chủ động kéo thân hình, mông và chân tay em bé ra khỏi cửa mình của mẹ, cuộc rặn sinh xem như kết thúc. Tuy nhiên, có một số trường hợp bé quá to, cân nặng quá lớn có thể gây khó khăn ở thì xổ vai, kẹt vai. Lúc này các bác sĩ sẽ thực hiện một số thủ thuật để đỡ em bé… Có thể có một vài rắc rối, biến chứng khi kẹt vai nhưng thường thì ít ảnh hưởng đến sức khỏe của em bé, khả năng hồi phục của bé rất nhanh và ít khi để lại biến chứng…
Bác sĩ Thu Thủy

Trị dứt điểm chứng són tiểu ở phụ nữ

Són tiểu khi gắng sức có thể xảy ra ở bất cứ lứa tuổi nào trong cuộc đời người phụ nữ, thường gặp nhất ở lứa tuổi trung niên sau sinh đẻ hoặc tuổi mãn kinh. Bệnh tuy không đe dọa tính mạng nhưng ảnh hưởng xấu đến chất lượng sống của người bệnh do nước tiểu thường bị són ra ngoài, không kìm chế được sau ho, hắt hơi hoặc một cử động gắng sức đột ngột.
Xách nặng cũng… són tiểu
Chị Trần Thị L, 52 tuổi, một tiểu thương ở Thanh Hoá chia sẻ với chúng tôi trong tâm trạng hoàn toàn thoải mái: Chỉ mới hôm trước thôi, chị vẫn còn đang rất khó chịu với chứng són tiểu có thể xảy ra bất cứ lúc nào: ho, hắt hơi, cả lúc lên xuống cầu thang, khi xách nặng, thậm chí chạy… cũng ra nước tiểu. Chị chịu đựng tình trạng này đã hơn 3 năm rồi, cũng cắt thuốc nam và uống thuốc điều trị nhiều nơi nhưng không kết quả. Đọc được thông tin có phương pháp chữa được dứt điểm căn bệnh này, chị liên hệ đến Khoa Phụ sản Bệnh viện (BV) Trung ương Quân đội (TWQĐ) 108 và trở thành bệnh nhân đầu tiên ở đây được áp dụng phương pháp TOT (Trans Obturator Tape) - phương pháp mổ nâng niệu đạo bằng lưới prolene điều trị chứng són tiểu gắng sức ở phụ nữ. Sau phẫu thuật, chị hết luôn tình trạng són tiểu và làm thủ tục ra viện ngay hôm sau.
Trị dứt điểm chứng són tiểu ở phụ nữ
Qua một vết chích nhỏ ở thành trước âm đạo, một dải băng tổng hợp được đưa vào để nâng niệu đạo, trả lại vị trí chức năng bình thường của cơ quan này.
Tại sao lại xảy ra tình trạng són tiểu khi hoạt động gắng sức?
Theo các bác sĩ sản khoa, són tiểu không tự chủ qua đường niệu đạo là hậu quả của sự mất cân bằng giữa lực giữ nước tiểu của niệu đạo với lực co bóp để thải nước tiểu của bàng quang. Són tiểu gắng sức là tình trạng rò rỉ nước tiểu ra ngoài không theo ý muốn khi hoạt động gắng sức như: ho, hắt hơi, cười, đi lại, tập luyện thể thao, nâng vật nặng, thay đổi tư thế từ ngồi hoặc nằm sang đứng… Són tiểu không tự chủ có thể xảy ra cả ở phụ nữ trẻ tuổi và lớn tuổi, tỷ lệ người mắc tăng dần theo độ tuổi với tỷ lệ ước tính 22%.
Có hai lý do chính làm cho cổ bàng quang, niệu đạo (ống dẫn nước tiểu từ bàng quang ra ngoài) không đóng kín khi hoạt động gắng sức: thông thường nhất là do sự nâng đỡ kém của niệu đạo (cơ và tổ chức liên kết xung quanh bị nhão, yếu); hiếm hơn là cơ vòng của niệu đạo bị tổn thương.
Sự suy yếu của sàn chậu, tổ chức liên kết và cơ có thể do: mang thai và sinh nhiều lần, thời gian nghỉ hậu sản ít, bệnh nhân lớn tuổi, mãn kinh hoặc thiếu estrogen, béo phì, làm việc căng thẳng, chơi thể thao quá độ, khiêng vác nặng hoặc bị các bệnh làm bệnh nhân phải rặn lâu ngày (như táo bón).
Giải thoát nỗi ám ảnh, lo âu của chị em phụ nữ
TS.BS. Đặng Vĩnh Dũng - Khoa Phụ sản BV TWQĐ 108, người đã thực hiện kỹ thuật TOT cho BN L. cho biết: Trước đây, phẫu thuật điều trị bệnh són tiểu gắng sức chủ yếu bằng phương pháp BURCH. Phương pháp này bắt buộc phải mở bụng để tạo hình sàn chậu nên kỹ thuật phức tạp, nhiều tai biến, biến chứng và để lại sẹo lớn trên thành bụng. Khắc phục tình trạng này, phẫu thuật TVT ra đời, bản chất kỹ thuật này là treo niệu đạo lên trên xương mu. Kỹ thuật này cũng có thể gây ra tai biến thủng bàng quang, chảy máu và kỹ thuật cũng phức tạp. Năm 2001, phương pháp TOT được ra đời tại Pháp và trở thành phương pháp an toàn, dễ thực hiện và thành công đạt trên 90%.
Bằng biện pháp gây tê tại chỗ, qua một vết chích nhỏ ở thành trước âm đạo, một dải băng tổng hợp (Bandelette prolène) được đưa vào bọc quanh phần sau niệu đạo nhằm tạo ra một vùng đệm tựa chắc chắn, hỗ trợ cho vòng cơ đã rão yếu. Khi gắng sức, áp lực ổ bụng tăng lên sẽ ép niệu đạo lên vùng này làm bịt tắc lòng niệu đạo tránh được són tiểu gắng sức. Dải băng này được cấu tạo từ những sợi mô-nô-phi-la-măng tổng hợp và sợi polypropylen, là loại vật liệu được dùng rất phổ biến trong phẫu thuật, nó rất bền theo thời gian và được dung nạp rất tốt trong cơ thể. Giá của vật liệu này là 8,4 triệu đồng/1 dải băng.
Cũng theo TS.BS. Đặng Vĩnh Dũng, đây là một phẫu thuật nhẹ nhàng, không cắt cơ vùng bụng và tầng sinh môn, không nhìn thấy sẹo, ít gây sang chấn và ít đau. Thời gian mổ không quá 45 phút, rất ít tai biến nhưng hiệu quả ngay sau khi kết thúc phẫu thuật: bệnh nhân hắt hơi, ho sẽ không bị ra nước tiểu như trước mổ. Thời gian nằm viện ngắn - 1 ngày. Sau khi ra viện, bệnh nhân có thể sinh hoạt và làm việc bình thường, tuy nhiên, phải tránh những hoạt động thể lực quá nặng như gánh vác, chơi thể thao trong 2 tuần và kiêng sinh hoạt tình dục trong vòng 1 tháng...
Hiện tại, ở miền Bắc có 3 BV đang áp dụng kỹ thuật TOT là: BV Việt Pháp, BV 108 và BV Việt Đức.
Mai Linh

Chế độ ăn cho người mắc chứng rối loạn chuyển hóa

Hội chứng rối loạn chuyển hóa (HCRLCH) là tập hợp một số nguy cơ phát sinh cùng nhau, xuất hiện cùng nhau. Chế độ ăn hợp lý sẽ làm giảm các nguy cơ khi mắc hội chứng này.
Một người được chẩn đoán là bị HCRLCH khi họ có 3 hoặc nhiều hơn những biểu hiện sau đây:
- Thừa cân - béo phì.
- Huyết áp cao (tăng huyết áp).
- Lượng đường trong máu cao hơn so với bình thường.
- Cholesterol HDL thấp (lipoproterin mật độ cao).
- Triglycerides trong máu cao.
Kết hợp nhiều cách như thay đổi lối sống tích cực: ăn một chế độ ăn uống lành mạnh, tập thể dục thường xuyên, giảm cân sẽ làm giảm đáng kể nguy cơ các bệnh liên quan với hội chứng chuyển hóa. Khi mắc HCRLCH bạn cần tuân thủ theo chế độ ăn như sau:
Nguyên tắc xây dựng thực đơn:
Giảm năng lượng trong ngày để giảm cân nếu có thừa cân, béo phì:
Giảm năng lượng của khẩu phần ăn từng bước một, mỗi tuần giảm khoảng 30kcal so với khẩu phần ăn của bệnh nhân cho đến khi đạt năng lượng tương ứng với mức BMI.
Trong thực đơn nên ăn cá ít nhất 3 lần /tuần.
Trong thực đơn nên ăn cá ít nhất 3 lần /tuần.
Cần theo dõi cân nặng và BMI để điều chỉnh tổng lượng calo hàng tháng hoặc hàng quí đề phòng giảm cân quá nhanh hoặc quá nhiều. Khi giảm cân quá nhanh và quá nhiều sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi, suy nhược có thể còn nguy hiểm tới sức khỏe.
Giảm lượng chất béo (lipid) ăn vào:
- Tùy theo BMI, chất béo chỉ nên chiếm 15 - 20% tổng năng lượng với tỉ lệ: chất béo no chiếm 1/3 tổng số chất béo, 1/3 là acid béo chưa no nhiều nối đôi và 1/3 còn lại là acid béo chưa no một nối đôi.
- Nên dùng dầu lạc, dầu olive, dầu đỗ tương thay cho mỡ và nên ăn các hạt có dầu như: vừng, lạc, hạt dẻ, hạt bí ngô để cung cấp các acid béo không no có nhiều nối đôi omega 3, omega 6. Loại bỏ các thức ăn nhiều acid béo no như: mỡ, bơ, nước luộc thịt.
- Giảm lượng cholesterol ăn vào xuống dưới 250mg/ngày bằng cách không ăn các thực phẩm có nhiều cholesterol như: não (2.500mg%), bầu dục bò (400mg%), bầu dục lợn (375mg), gan lợn (300mg%), gan gà (440mg%). Hạn chế các thức ăn này góp phần làm giảm lượng cholesterol trong khẩu phần ăn. Lòng đỏ trứng có nhiều cholesterol, nhưng đồng thời có nhiều lecithin (một chất điều hòa chuyển hóa cholesterol trong cơ thể). Do đó, ở những người có cholesterol máu cao, không nhất thiết phải kiêng hẳn trứng mà chỉ nên ăn trứng l - 2 lần/tuần, mỗi lần ăn 1 quả.
Sử dụng chất đạm (protein) một cách hợp lý:
Lượng chất đạm chỉ nên chiếm 13 - 15% năng lượng khẩu phần ăn hàng ngày
Nên sử dụng thịt ít béo như: thịt bò nạc, thịt gà nạc bỏ da, thịt lợn thăn, nên dùng cá, đậu đỗ. Nên ăn các sản phẩm được chế biến từ đậu tương: sữa đậu tương, đậu phụ, tào phớ, bột đậu tương, sữa chua đậu tương… Thực phẩm làm từ đậu tương chứa nhiều estrogen thực vật (isoflavon) làm giảm đáng kể nồng độ cholesterol toàn phần, cholesterol lipoprotein tỉ trọng thấp (LDL) và triglycerid (những thành phần làm tăng nguy cơ xơ vữa động mạch).
Trong thực đơn nên ăn cá ít nhất 3 lần/tuần.
Tăng cường chất xơ trong khẩu phần ăn: nên ăn 400 - 500g rau xanh/ngày và 300 g quả chín/ngày.
Thay đổi cách chế biến các món ăn như: tăng cường hấp, luộc, ninh, nhúng, chao, hầm; không dùng phương pháp chế biến rán, hun, quay, nướng…
Những thực phẩm nên kiêng và ăn hạn chế:
- Bơ, mỡ động vật, thịt nhiều mỡ.
- Bánh, kẹo, nước ngọt có ga.
- Phủ tạng động vật: óc, tim, gan, bầu dục, lòng lợn...
- Lòng đỏ trứng: chỉ ăn 1 - 2 quả/tuần.
- Những loại quả chín quá ngọt: na, nhãn, vải, chuối, mít, xoài…
- Thức ăn chế biến sẵn: batê, xúc xích, lạp xưởng, khoai tây chiên…
- Thức nhiều muối mặn: dưa, cà muối…, các loại mắm tôm, tép, các mắm.
- Thức ăn chiên, xào, rán.
Những thực phẩm nên ăn nhiều và thường xuyên:
- Ngũ cốc nguyên hạt: gạo lứt, không không xay xát quá kỹ, khoai, củ…: ăn theo nhu cầu về năng lượng tương ứng với chỉ số BMI.
- Đậu tương và các chế phẩm từ đậu tương: đậu phụ, sữa đậu nành, sữa chua đậu tương.
Trong thực đơn nên ăn cá ít nhất 3 lần /tuần
Trong thực đơn nên ăn cá ít nhất 3 lần /tuần
- Thịt gà bỏ da (lườn gà), thịt nạc thăn, tôm, cua, cá: ăn 120 - 150g/ngày.
- Sữa đậu nành không đường, sữa bột tách béo không đường: ngày nên uống 300 - 400ml.
Các loại quả chín ít ngọt: bưởi, thanh long, táo, lê, dưa chuột, củ đậu, cam, quýt
- Các loại rau xanh: rau cần, bắp cải, súp lơ, su hào, rau muống, mồng tơi… giá đỗ, bầu bí.
- Dầu thực vật: dầu đậu tương, hạt cải, oliu, dầu mè, dầu lạc…: ăn ở mức vừa phải 20 - 30g/ ngày nên ăn dạng trộn salat, hạn chế xào rán.
- Uống đủ nước 1,5 - 2 lít/ngày.

4 thói quen tưởng vô hại có thể gây ung thư vú

1. Tự ý dùng thuốc nội tiết kéo dài
Hiện nay, rất nhiều chị em, đặc biệt là những người trên 40 tuổi đã vội vàng và tự ý dùng các thuốc thay thế nội tiết, với mục đích nhằm trẻ hóa, kéo dài thời gian kinh nguyệt, chất lượng cuộc sống vợ chồng. Họ thường mua và uống theo phong trào, theo kiểu: “Các chị, các cô ở cùng cơ quan ai cũng dùng như thế”.
4 thói quen tưởng vô hại có thể gây ung thư vú
Theo Bác sĩ sản khoa Nguyễn Thị Tân Sinh, nhu cầu được kéo dài tuổi thanh xuân là hoàn toàn chính đáng. Nhưng các thuốc thay thế nội tiết chỉ được sử dụng trong thời gian nhất định theo chỉ định của thầy thuốc, khi đã loại trừ các yếu tố nguy cơ. Nếu không, đây sẽ là một nguy cơ gia tăng ung thư vú.
2. Thường xuyên làm việc ban đêm
Theo BS Tân Sinh, với những người thường xuyên phải làm việc ban đêm - rất nhiều nghiên cứu trên thế giới cũng đã chứng minh - có nguy cơ mắc ung thư vú cao hơn. Họ có thể là những người quét đường, công nhân làm ca kíp, thậm chí các nhân viên y tế.
4 thói quen tưởng vô hại có thể gây ung thư vú
Ban đêm là thời gian để cơ thể nghỉ ngơi, tái tạo các tế bào theo cơ chế sinh học bình thường. Thế nhưng khi làm việc, họ vẫn bị ánh sáng chiếu, làm gia tăng sự biến đổi bất thường của tế bào dẫn đến ung thư.
3. Quá “tích cực” bôi kem chống nắng
Tình trạng chị em quá “tích cực” bôi kem chống nắng, che chắn quá kỹ khi ra đường vì sợ ung thư da, sợ má không còn hồng, da không còn mịn dưới ánh sáng mặt trời đang diễn ra phổ biến. Điều đó dẫn đến cơ thể thiếu vitamin D, và cũng là một nguy cơ đối với ung thư vú.
4 thói quen tưởng vô hại có thể gây ung thư vú
Chị em phụ nữ đương nhiên có quyền làm đẹp. Tuy nhiên, khi sử dụng hóa mỹ phẩm, thuốc nhuộm tóc, khử mùi cần có sự chọn lọc. Các nghiên cứu đã chứng minh, hóa mỹ phẩm càng ít mùi thơm càng an toàn, bởi trong các hóa chất tạo mùi thơm thường là các benzen vòng có nguy cơ gây ung thư.
4. Thói quen lạm dụng đồ ăn nhanh
Thói quen lạm dụng đồ ăn nhanh, ít vận động dẫn đến béo phì được coi là nguy cơ rất cao. Nội tiết tố nữ không chỉ sinh ra từ buồng trứng mà còn từ các mô mỡ. Chính vì thế, ở những người phụ nữ thừa cân, béo phì, hàm lượng estrogen cao cũng có thể kích thích tế bào vú trở thành ung thư.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã cho thấy ở những người có nguy cơ cao, thậm chí ở những người đã bị ung thư vú rồi, việc tập thể thao 4-7 giờ/tuần thì giảm hẳn mức độ nguy cơ hoặc tình trạng bệnh so với người không tập, hoặc tập ít hơn 4 giờ/tuần. Các bài tập này nhiều khi đơn giản chỉ là đi bộ, hoặc các động tác vận động phù hợp với cơ thể.
4 thói quen tưởng vô hại có thể gây ung thư vú
Nguyên nhân dẫn đến nguy cơ ung thư vú từ lâu đã được nói đến là tuổi tác, phụ nữ không có con hoặc sinh con muộn, không cho con bú, từng có bệnh vú lành tính, có người thân bị ung thư, dậy thì sớm hoặc mãn kinh muộn. Nhưng những thói quen mới trong cuộc sống nói trên cũng làm gia tăng nguy cơ mắc căn bệnh này. Hiện nay, đây vẫn là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ, gây tử vong hàng đầu ở Việt Nam. Việc phát hiện sớm bệnh ở giai đoạn I và II có thể chữa khỏi cho 90% ca bệnh. Nhưng để bệnh ở giai đoạn III và IV, tỉ lệ sống được 5 năm chỉ còn khoảng 20%. Do đó, chị em cần có ý thức về phát hiện sớm bệnh, thông qua việc tự khám vú, chụp X – quang, siêu âm, và gần đây là xét nghiệm phát hiện gen BRCA1, BRCA2 và p53 đột biến, nhất là sau độ tuổi 35. Kèm theo đó là duy trì cân nặng hợp lý, tích cực hoạt động thể chất, chế độ ăn lành mạnh, hạn chế sử dụng đồ uống có cồn.
Cũng theo PGS - TS Đoàn Hữu Nghị, chuyên gia U bướu và xạ trị: Phác đồ kết hợp cả 5 phương pháp phẫu thuật, xạ trị, hóa trị, nội tiết, điều trị đích có thể khỏi 50-85% ca bệnh ở mọi giai đoạn. Tuy nhiên, việc phát hiện sớm có thể bảo tồn vú, thay đổi quá trình điều trị và luôn có thể đem lại chất lượng sống cho người bệnh hơn.
D.Hải

Phụ nữ tuổi 40 cần thay đổi cách chăm sóc cơ thể

Nghiên cứu mới đây của Đại học Gothenburg (Thụy Điển) cho thấy, phụ nữ từ tuổi 40 thường gặp nhiều trục trặc về sức khỏe, tâm lý dẫn đến lo âu, căng thẳng. Có hơn 20% phụ nữ trong nhóm nghiên cứu được chẩn đoán là bị trầm cảm và có nguy cơ mất trí nhớ cao. Đặc biệt, theo thống kê của Đại học Melbourne (Australia), trong khoảng giai đoạn tiền mãn kinh đến mãn kinh, các triệu chứng suy giảm tình dục ở phụ nữ tăng rõ rệt từ 42% đến 88%.
Giáo sư, bác sĩ Nguyễn Thị Ngọc Phượng - Chủ tịch Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP HCM lý giải, khi chị em bước vào giai đoạn này, hoạt động của hệ trục thần kinh - nội tiết gồm não bộ, tuyến yên và buồng trứng là các cơ quan kiểm soát toàn diện bộ các hormone nữ đã suy yếu, ảnh hưởng đến nhiều cơ quan khác trong cơ thể. Đây là hiện tượng tự nhiên của tiến trình lão hóa mà không ai có thể tránh được.
Tuy nhiên, nếu có kiến thức và phương pháp khoa học, người phụ nữ hoàn toàn có thể “làm chậm” quá trình suy giảm không mong muốn này và giữ gìn được nhan sắc, sức khỏe, sinh lý khi bước vào ngưỡng cửa tuổi 40.
Chọn thực đơn thích hợp
Theo Bác sĩ CKII Đỗ Thị Ngọc Diệp, Giám đốc Trung tâm Dinh dưỡng TP HCM, chị em phụ nữ thường chỉ chú tâm đến việc chăm sóc gia đình và con cái nên không có thời gian quan tâm đến chế độ dinh dưỡng của mình. Tuy nhiên, dinh dưỡng hợp lý là một trong các biện pháp quan trọng giúp ngăn ngừa các biến đổi và rối loạn trong cơ thể phụ nữ tuổi trung niên.
Xem clip Bác sĩ CKII Đỗ Thị Ngọc Diệp tư vấn về chế độ dinh dưỡng.
Năng vận động, kiểm soát stress
Thường xuyên vận động vừa sức sẽ giúp các chị em tăng tuần hoàn máu, ổn định tim mạch, ăn ngon miệng, chắc xương, giảm táo bón, rèn luyện trí não… Các chuyên gia khuyên mỗi người nên duy trì tập luyện đều đặn 30 phút mỗi ngày bằng các hình thức như đi bộ, tập yoga…
Bên cạnh đó, chị em cần kiểm soát stress trong cuộc sống, tránh ảnh hưởng nhịp tim tự nhiên và gây ra những thay đổi tiêu cực trong khắp cơ thể. Việc dành một phần trong quỹ thời gian của mình để gặp gỡ bạn bè, tham gia các tổ chức tình nguyện hay các nhóm có cùng chung sở thích giúp chị em giảm bớt căng thẳng, suy nghĩ tích cực, lạc quan hơn và có nhiều niềm vui trong cuộc sống.
Phụ nữ tuổi 40 cần thay đổi cách chăm sóc cơ thể
12 động tác của bài tập yoga “Chào mặt trời” tốt cho phụ nữ tuổi 40.
Chăm sóc đời sống tình dục
Tuổi trung niên là một giai đoạn dài của đời người phụ nữ và chứa đựng nhiều đổi thay trong cơ thể từ sức khỏe nói chung đến chức năng tình dục. Những dấu hiệu như bốc hỏa, giảm ham muốn, khô hạn, mệt mỏi… làm ảnh hưởng đến quan hệ gối chăn và chất lượng cuộc sống. Nguyên do là bộ các hormone nữ thay đổi bất thường, đặc biệt là các hormone như progesterone, estrogen, testosterone đều suy giảm và mất cân bằng, dẫn đến tình trạng tiền mãn kinh và mãn kinh.
Nghiên cứu về cơ chế hoạt động thần kinh - nội tiết, các nhà khoa học đã chỉ ra rằng cần chăm sóc hệ trục não bộ - tuyến yên - buồng trứng để thúc đẩy cơ thể tự sản sinh các hormone đúng và đủ với nhu cầu của mỗi người. Cơ chế nội sinh này giúp giải quyết các vấn đề của phụ nữ tuổi quanh mãn kinh và mãn kinh một cách hiệu quả, an toàn. Với những kết quả nghiên cứu uy tín tại Mỹ, hoạt chất sinh học thiên nhiên từ Lepidium Meyenii được khẳng định là dưỡng chất quý, có khả năng tác động tổng thể đến hệ trục não bộ - tuyến yên - buồng trứng, giúp duy trì hoạt động nhịp nhàng, từ đó giúp gìn giữ sức khỏe, sắc đẹp, đời sống sinh lý của phụ nữ một cách toàn diện, bền vững và an toàn.


Duy trì lịch khám sức khỏe định kỳ
Các chuyên gia khuyên rằng phụ nữ tuổi trung niên nên khám sức khỏe tổng quát định kỳ thường xuyên, ít nhất là 6 tháng 1 lần cho dù có bệnh hay không. Việc làm này không chỉ để theo dõi tình hình sức khỏe hiện tại mà còn giúp chị em sớm phát hiện bệnh, từ đó có phương pháp điều trị kịp thời.

 Phụ nữ tuổi 40 cần thay đổi cách chăm sóc cơ thể

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2014

Giảm đau đẻ bằng thảo dược: Coi chừng rước họa!

Trên nhiều trang web, diễn đàn mạng có hàng loạt bài viết chia sẻ kinh nghiệm dùng thảo dược giảm đau đẻ: lấy hoa hướng dương phơi khô, nấu nước uống mỗi ngày hai - ba lần trước thời điểm sinh khoảng một tháng, sẽ giúp sản phụ dễ sinh, không đau đớn. Một số người hướng dẫn, những tháng cuối thai kỳ, nên nấu nước lá tía tô uống thay nước hằng ngày; khi xuất hiện cơn đau chuyển dạ, uống liên tục khoảng 0,5 - 1 lít đậm đặc. Để cuộc chuyển dạ diễn ra nhanh hơn, vài tuần trước khi sinh, bà bầu nên ăn nhiều thơm hoặc uống nước ép trái thơm. Nhiều bà mẹ đã trấn an nhau, những phương cách dân gian này, dù chưa được khoa học chứng minh nhưng không tổn hại gì, có thể thoải mái áp dụng.
Thực hư công dụng
Giảm đau đẻ bằng thảo dược: Coi chừng rước họa!
BS Huỳnh Tấn Vũ - giảng viên Khoa Y học cổ truyền, ĐH Y dược TP.HCM cho biết, nhiều người vẫn quan niệm Đông dược không độc nên cứ dùng thoải mái. Tuy nhiên, khi chưa biết thực hư công dụng mà “uống đại” sẽ rất nguy hiểm. Phân tích từng bài thuốc trên, BS Huỳnh Tấn Vũ chỉ rõ:
Hoa hướng dương vị ngọt, tính bình, không độc, có một số chất như glucoside flavonic, cryptoxanthin, lutein, taraxanthin và một ít caroten… có tác dụng chữa một số bệnh phụ nữ như thống kinh, bế kinh, khí hư, băng huyết rong kinh, viêm loét âm đạo. Những sản phụ khó sinh có thể dùng đài hoa hướng dương sắc uống để quá trình sinh nở diễn ra nhanh hơn, nhưng chỉ uống trong lúc chuyển dạ. Sau khi sinh, nếu bị đau bụng, có thể dùng nhụy hoa hướng dương lượng vừa đủ sắc uống.
Chị em cần lưu ý, mỗi bộ phận như hoa, lá, thân, rễ, hạt… có từng công dụng khác nhau. Vị thuốc từ hoa hướng dương khác với vị thuốc từ thân cây hoa hướng dương. Thuốc từ thân cây hoa hướng dương có thể gây sẩy thai, nếu dùng nhầm sẽ rất nguy hiểm.
Trong tía tô có tinh dầu, chủ yếu là perilladehyd, l-perilla-alcohol, limoneli, pinen, dihydrocumin; ngoài ra còn có elsholtziaketone. Tía tô có tác dụng ra mồ hôi, lợi tiểu, trừ cảm lạnh, trị ho, thở khò khè, đau bụng, trướng bụng, nôn mửa khi có thai, có thai đau bụng ra huyết…; không có tác dụng giúp dễ đẻ, giảm đau đẻ. Chưa kể, lá tía tô có tính ấm, cơ thể thai phụ lại nóng, uống thay nước hằng ngày có thể dẫn đến tăng huyết áp với các biểu hiện mệt mỏi, choáng váng, thở nông… rất nguy hiểm.
Thơm (còn gọi là dứa, khóm) có vị ngọt, hơi ngứa, tính mát, tác dụng thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu độc, chỉ huyết. Trong thơm tươi hoặc nước ép thơm có nhiều vitamin A, C, kali, magiê và bromelain - có tác dụng co bóp, làm mềm tử cung, giúp cuộc chuyển dạ diễn ra nhanh hơn.
Tuy nhiên, thai phụ nên cẩn trọng khi áp dụng phương pháp này, vì nếu ăn quá nhiều thơm lúc mang thai, có nguy cơ sẩy thai hoặc sinh non do xuất hiện những cơn co thắt. Chưa kể, thơm mọc sát đất, trong quá trình thu hoạch, vận chuyển, các loại nấm có cơ hội phát triển, xâm nhập vào bên trong. Tùy cơ địa, một số người có thể ngộ độc thơm với biểu hiện khó chịu, mệt mỏi, ngứa, nổi mề đay, đau bụng, buồn nôn, tiêu chảy, khó thở, hạ huyết áp... Nếu cấp cứu không kịp, có thể dẫn tới tử vong. Thai phụ lại là đối tượng dễ ngộ độc hơn người bình thường.
“Không nên tùy ý sử dụng cây thuốc, vị thuốc các loại hoa, quả trong quá trình chuyển dạ, vì mỗi loại chỉ thích hợp trên từng cơ địa, trên cụ thể từng bệnh lý, dùng thuốc gì phải có sự tư vấn của thầy thuốc, nhất là thầy thuốc sản khoa” - BS Huỳnh Tấn Vũ khuyến cáo.
Giảm đau đẻ bằng thảo dược: Coi chừng rước họa!
Các phương pháp giảm đau khi chuyển dạ
TS-BS Lê Thị Thu Hà - BV Từ Dũ TP.HCM cho biết, ở người sinh con rạ, thời gian chuyển dạ kéo dài từ 6 - 12 giờ; ở người mới sinh con lần đầu, thời gian có thể tăng lên gấp đôi, từ 12 - 24 giờ. Dù vậy, cũng có người chuyển dạ nhanh hơn. Lúc mới chuyển dạ, cơn gò tử cung thường nhẹ và thưa, khoảng mười phút mới xuất hiện hai - ba cơn gò nên ít đau. Về sau, cơn gò xuất hiện nhiều hơn với thời gian dài hơn và cường độ mạnh hơn, làm sản phụ đau nhiều. Do cảm giác đau ở mỗi người khác nhau nên có người đau ít, người đau nhiều, quan trọng là do tâm lý, khả năng chịu đau của mỗi người.
Có nhiều phương pháp giảm đau trong chuyển dạ, từ các phương pháp không dùng thuốc như: thư giãn, tập thở, liệu pháp tâm lý, sinh lý, thôi miên, châm cứu… đến các phương pháp dùng thuốc mê, thuốc giảm đau, rồi đến các phương pháp gây tê vùng, gây tê trục thần kinh, gây tê đám rối, gây tê ngoài màng cứng, gây tê tủy sống hay kết hợp giữa gây tê ngoài màng cứng và gây tê tủy sống… Mỗi phương pháp đều có những ưu khuyết điểm riêng, nhưng nói chung các phương pháp giảm đau trong chuyển dạ góp phần giúp cho việc sinh nở trở nên dễ dàng, thuận lợi.
Hiện nay, phổ biến nhất ở các cơ sở sản khoa là phương pháp gây tê ngoài màng cứng hoặc tủy sống. Ưu điểm của phương pháp này là giúp giảm đau nhanh. Hiệu quả của thuốc chỉ khu trú một vùng nên sản phụ vẫn cảm nhận được toàn bộ quá trình chuyển dạ và sinh con của mình. Nếu thực hiện đúng kỹ thuật và chỉ định, việc gây tê ngoài màng cứng hầu như không ảnh hưởng gì về sau. Một số tác dụng phụ có thể gặp như chóng mặt, đau đầu nhẹ, hạ huyết áp, lạnh run, buồn nôn, nôn, đau lưng, rối loạn chức năng bàng quang… Tuy nhiên, các biến chứng này có thể dự phòng được bằng kỹ thuật của các bác sĩ và tôn trọng các chống chỉ định. Những chống chỉ định của gây tê ngoài màng cứng và gây tê tủy sống bao gồm: dị ứng với thuốc tê nhóm amide, tụt huyết áp nặng chưa điều chỉnh được, đang dùng thuốc chống đông máu, viêm cấp tính, nhiễm trùng huyết, bệnh lý thần kinh - tủy sống, bệnh cột sống như lao, u bướu…
Theo TS-BS Lê Thị Thu Hà, nếu sợ đau khi sinh và thuộc đối tượng không thể áp dụng kỹ thuật dùng thuốc, sản phụ nên đến bệnh viện để được tư vấn và áp dụng các phương pháp không dùng thuốc. Dù không giảm đau như phương pháp dùng thuốc nhưng cũng giúp cuộc sinh nở nhẹ nhàng hơn rất nhiều. Tuyệt đối không sử dụng bừa bãi các bài thuốc giúp giảm đau, chuyển dạ nhanh khi chưa có chỉ định của bác sĩ.
Theo Báo Phụ nữ

Khám sức khỏe tiền hôn nhân- "vắc xin" cần thiết cho hạnh phúc gia đình

Muốn vậy mỗi người cần phải biết tình trạng sức khỏe của mình trước khi kết hôn... Để có được liều “vắc xin” này thì việc tư vấn và khám sức khỏetiền hôn nhân càng trở nên hết sức cần thiết...
Vì không biết trước...
Từ hôm cấp cứu tràn dịch màng phổi đến nay đã được 3 tháng nhưng sức khỏe của chị Minh vẫn còn rất yếu. Con vừa sinh ra chị phải cai sữa ngay vì mẹ cần điều trị tấn công nên không thể cho bú. Thế là bà ngoại chăm mẹ, bà nội chăm con...
Trước đó chị đâu có biết mình bị lao nên không điều trị. Khi lấy chồng thấy người cứ ốm yếu nhưng chị nghĩ là do mình nghén ngẩm. Sức khỏe cứ yếu dần rồi chị phải nhập viện cấp cứu và buộc phải mổ đẻ sinh sớm khi con chị mới được gần 8 tháng trong bụng mẹ.
Thiếu tháng, lại được mang thai trong tình trạng sức khỏe người mẹ không tốt kết hợp không được bú sữa mẹ nên bé rất yếu ớt. Từ khi sinh ra, thời gian nằm viện nhiều hơn ở nhà vì... viêm phổi. Anh Hưng, chồng chị phờ phạc và mệt mỏi. Lấy vợ chẳng được bao lâu thì vợ ốm rồi bây giờ cả hai mẹ con cùng ốm, anh phải nghỉ việc và đôn đáo chạy đi chạy lại để chăm vợ và con.
Giờ nằm trên giường bệnh nhìn chồng gầy đi trông thấy, con ốm yếu chị không khỏi ân hận. Giá như chị biết trước được sức khỏe của mình thì sẽ chưa mang thai vội.
Buồn hơn chị Minh, trường hợp của chị Lan đến khi sinh mới biết mình bị nhiễm HIV và truyền cho con. Chị bàng hoàng, tuyệt vọng! Khi lấy anh, chị đã biết trước đó anh đã nghiện thuốc phiện. Lúc ấy chị muốn lắm, muốn thuyết phục anh đi kiểm tra sức khỏe. Thế nhưng chỉ vì sợ anh cho là chị không tin anh nên cứ nấn ná rồi thôi.
Tình trạng ân hận thì sự việc đã rồi như trên không phải là hiếm. Ở nước ta do chưa có thói quen đi khám sức khỏe tiền hôn nhân cộng với tâm lý e ngại, sợ mất lòng tin ở nhau nên nhiều hôn nhân đã không trọn vẹn, như ý. Họ chỉ đơn giản cho rằng đã quyết định tiến tới hôn nhân thì cả hai phải tin tưởng tuyệt đối vào nhau... trong khi chỉ bằng niềm tin ấy không thể giải quyết được những vấn đề liên quan đến sức khỏe, bệnh tật, sinh nở... nếu cả hai không có những kiến thức và sự hiểu biết về nó.
Cần có “chứng chỉ sức khỏe” khi kết hôn
TS. BS Nguyễn Thị Hoài Đức, Viện trưởng Viện Sức khỏe sinh sản và Gia đình (RaFH) cho biết: việc kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân sẽ giúp phát hiện những dị tật ở bộ phận sinh dục, xem có sự bất thường về chức năng hoạt động tình dục và sinh sản hay về tâm thần hay không... Ngoài ra, còn nhằm phát hiện và điều trị sớm một số bệnh tật (nếu có) có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hiện tại và sau này.
Tư vấn về sức khỏe trước khi kết hôn
Tư vấn về sức khỏe trước khi kết hôn
Người sắp kết hôn sẽ được tư vấn về tình dục và mang thai an toàn và biết cách ngừa thai đúng cách. Đặc biệt là dự phòng các bệnh lý, dị tật bẩm sinh (do di truyền) cho đứa con trong tương lai. Với những người mang gien di truyền (các bệnh tâm thần, Down, Thalassemia...) việc khám sức khỏe sớm phát hiện bệnh sẽ giúp người trong cuộc có nên quyết định lấy nhau hay không hoặc nếu lấy nhau thì sẽ chọn biện pháp mang thai nào cho phù hợp để tránh có những đứa con tật nguyền.
Theo các chuyên gia, mỗi người tự đi kiểm tra sức khỏe tiền hôn nhân còn để xem mình có đủ sức khỏe bước vào cuộc sống hôn nhân, có thể mang lại hạnh phúc cho nhau không. Điều này không chỉ giúp các “đối tác” hiểu rõ tình trạng của nhau để “cân nhắc” việc ăn đời ở kiếp với nhau, mà còn giúp họ có cơ sở để biết cách chăm sóc nhau tốt hơn trong cuộc sống sau này; giúp họ tự tin hơn khi bước vào cuộc sống gia đình.
Không biết được tình trạng sức khỏe của mình và của nhau nên thực tế không ít trường hợp khi lấy nhau về rồi dở khóc, dở cười như: không có bộ phận sinh dục, vợ hoặc chồng bị vô sinh hay sinh ra những đứa con dị tật... Trong khi tất cả những điều này có thể biết trước và phòng tránh được nếu như trước đó họ đi khám sức khoẻ ở các trung tâm chăm sóc sức khoẻ sinh sản/tư vấn tiền hôn nhân. Hiện trong Luật Hôn nhân và Gia đình chưa bắt buộc phải đi khám sức khỏe tiền hôn nhân nhưng theo TS Đức, rất cần có một chứng chỉ về sức khỏe trước khi kết hôn.
Hôn nhân là kết quả của sự hòa hợp của hai con người về thể xác cũng như tinh thần để sau ngày tân hôn cặp vợ chồng chính thức bước vào cuộc sống chung mà một phần quan trọng trong cuộc sống gia đình của họ đó là đời sống tình dục. Tình dục không chỉ có vai trò duy trì nòi giống mà còn phải mang lại sự thỏa mãn cho cả hai người. Một cuộc sống gia đình chỉ trọn vẹn và hạnh phúc khi có một chất lượng sinh sản tốt (sinh ra những đứa con khỏe mạnh, thông minh) và một đời sống tình dục an toàn, viên mãn. Muốn vậy thì tất cả những vấn đề về tâm lý và sức khoẻ của cha, mẹ phải được chăm sóc ngay từ ban đầu. Bạn có thể đến các phòng khám tư nhân; các trung tâm y tế quận, huyện; các trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản hoặc các bệnh viện để được đáp ứng nhu cầu này.
Lợi ích của việc chăm sóc sức khỏe tiền hôn nhân
  • -Chuẩn bị kiến thức tâm lý đúng cho cuộc sống tình dục vợ chồng
  •  
  • -Phát hiện và điều trị sớm một số bệnh tật (nếu có) có thể ảnh hưởng đến vấn đề tình dục, mang thai và sinh đẻ về sau.
  •  
  • -Chuẩn bị để có một cuộc sống tình dục thoải mái, thỏa mãn và an toàn .
  •  
  • -Thực hiện sinh đẻ có kế hoạch một cách hiệu quả nhất.
  •  
  • -Dự phòng các bệnh lý, dị tật bẩm sinh cho đứa con trong tương lai, chuẩn bị cho người phụ nữ có điều kiện sức khỏe để mang thai và sinh đẻ an toàn về sau...

Thu Hương

Axit folic - “siêu” vitamin cho thai phụ

Axit folic (hay còn gọi là folat) có chức năng cần thiết cho sự phát triển và phân chia tế bào của người, động vật, thực vật và cần cho sự hình thành tế bào máu, nó có vai trò quan trọng đối với phụ nữ mang thai.
Nhu cầu axit folic ở người trưởng thành cần khoảng 180-200mcg/ngày, nhưng trong khi mang thai cần 400mcg/ngày để đáp ứng các nhu cầu gia tăng trong quá trình mang thai. Cụ thể, cần cho sự gia tăng của quá trình phân chia tế bào (tổng hợp nhân tế bào và protein), hình thành nhau thai, số lượng tế bào hồng cầu gia tăng và sự tăng trưởng của bào thai…
Axit folic - “siêu” vitamin cho thai phụ
Axit folic đặc biệt cần thiết đối với phụ nữ mang thai.
Hậu quả của sự thiếu hụt axit folic với phụ nữ mang thai gây thiếu máu hồng cầu khổng lồ, nguy cơ sảy thai cao, sinh non và sinh con nhẹ cân. Nếu thiếu axit folic trong giai đoạn sớm của thai kỳ gây ra sự phân chia tế bào không bình thường, gây sảy thai hoặc dị tật thai nhi như hở hàm ếch, vòm miệng, hội chứng Down, đặc biệt nguy hiểm là khiếm khuyết ống thần kinh. Đây là một nhóm các bất thường có liên quan đến cột sống, xương sọ và não, với sự phổ biến nhất là tật nứt đốt sống và thiếu não.
Với nứt đốt sống, cột sống của thai nhi không đóng được (thường xảy ra ở 21-28 ngày sau khi thụ thai) làm cho tủy sống không được bảo vệ. Thiếu não là một khiếm khuyết, trong đó bộ não không phát triển hoặc phát triển không đầy đủ. Trẻ bị thiếu não thường tử vong trước hoặc ngay sau khi sinh.
Như vậy, axit folic có vai trò quan trọng đặc biệt đối với phụ nữ mang thai, nó được xem là “siêu” vitamin vì rất có lợi cho sự phát triển của não và hệ thần kinh của thai nhi, ngăn ngừa các khuyết tật ống thần kinh (NTDs).
Trên thực tế, thiếu axit folic hiếm khi xảy ra đơn độc mà thường tồn tại với sự thiếu hụt nhiều các vitamin và khoáng chất khác. Sự thiếu hụt tổng thể này đặc biệt xảy ra ở người nghiện rượu mạn tính, nghèo đói, chế độ ăn kiêng, và các rối loạn kém hấp thu…
Hiện nay sử dụng viên bổ sung axit folic cho phụ nữ mang thai 400µg/ngày được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Cần lưu ý, nên bổ sung sớm trước khi dự định có thai 3 tháng và liên tục đến tuần thứ 12 sau khi thụ thai. Đây là việc làm đơn giản và không tốn kém. Cùng với việc uống viên nang bổ sung axit folic, phụ nữ mang thai nên chú trọng đến những thực phẩm giàu dưỡng chất này như: rau lá màu xanh đậm, ngũ cốc, gan, đậu, bơ, lạc, măng tây…
Ngoài ra một chế độ ăn hợp lý đa dạng sẽ giúp cơ thể người mẹ có đầy đủ các loại vitamin cần thiết giúp cho sự cân bằng của cơ thể và thai nhi phát triển tốt.

Dược sĩ Hoàng Thu

 
Design by Free WordPress Themes | Bloggerized by Lasantha - Premium Blogger Themes | Laundry Detergent Coupons