Rối loạn tâm thần thời kỳ
mang thai và sau sinh là một quá trình biến đổi sinh lý, sinh hóa phức tạp diễn
ra với các mức độ khác nhau làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người mẹ và
đến sự phát triển thể chất cũng như tâm thần của đứa trẻ khi sinh.
Nguyên nhân xuất hiện rối
loạn tâm thần trong thai kỳ
Yếu tố sinh học:
Trong thời kỳ có thai có sự
thay đổi nội tiết tố liên quan đến thai nhi như các hoóc-môn estrogen,
progesteron, HCG, có sự gia tăng bài tiết một số hoóc-môn tuyến yên, cận giáp,
tuyến giáp và hoóc-môn buồng trứng.
Ở tuyến yên: trong thời kỳ
mang thai tuyến yên của người mẹ to gấp rưỡi so với bình thường và tăng bài
tiết ACTH, TSH.
Tuyến giáp cũng to gấp rưỡi
so với bình thường và tăng bài tiết T3, T4.
Aldosterol tăng cao nhất ở
tháng cuối cùng với estrogen.
Yếu tố tâm lý xã hội không
thuận lợi:
- Mang thai ngoài ý muốn.
- Mẹ sống độc thân.
- Sự khó khăn thiếu thốn về
vật chất, kinh tế thu nhập kém hoặc không có khi mang thai.
- Thiếu sự quan tâm, chăm
sóc, nâng đỡ từ gia đình, chia sẻ của người chồng; quan niệm sinh con trai, con
gái.
- Ngoài ra còn các yếu tố
liên quan trực tiếp như nhiễm trùng, nhiễm độc, can thiệp sản khoa.
Một số công trình nghiên cứu
trên thế giới trước kia cũng như hiện nay không đề cập yếu tố di truyền liên
quan đến gia đình.
Các dấu hiệu rối loạn tâm
thần khi mang thai
Rối loạn stress cấp và trường
diễn:
Rối loạn này xảy ra ở bất kỳ
thời điểm nào trong thời gian mang thai và dễ làm tăng nguy cơ tử vong sơ sinh,
trong thực tế thì ít được mọi người chú ý đến.
Nguy cơ bị stress có thể gây
tác hại lập tức và dài hạn cho thai, tác hại ở chỗ làm thời gian thai kỳ ngắn
hơn, dễ sinh non, thai chết lưu - hay gặp ở 3 tháng đầu thai kỳ. Nếu stress xảy
ra ở 3 tháng cuối thì nguy cơ cao nhất là thai sinh nhẹ ký.
Rối loạn stress sau chấn
thương: chiếm khoảng 3,5% ở những phụ nữ mang thai khi bị dễ có nguy cơ cao
thai bị lạc chỗ, sảy thai, nôn nhiều và chuyển dạ sớm.
Rối loạn trầm cảm:
- Chiếm khoảng 13 - 20%.
- Trầm cảm liên quan đến các
tai biến như sảy thai, chảy máu trong thời gian thai kỳ, sức đề kháng động mạch
tử cung cao và gia tăng nguy cơ sinh mổ.
- Trầm cảm dễ dẫn đến những
hành vi có hại cho sức khỏe thai nhi ở bà mẹ hút thuốc lá, uống rượu, sử dụng
ma túy và tăng cân.
- Gặp ở bà mẹ ít chú ý chăm
sóc bản thân, ít khám thai định kỳ, ăn uống không đủ chất.
- Trầm cảm nhẹ: sau khi sinh
con khoảng 3 - 4 ngày người mẹ có thể khóc lóc không rõ nguyên nhân, mệt mỏi.
- Trầm cảm nặng: lúc đầu
người mẹ cảm thấy lo lắng, sau trở nên buồn rầu, cáu gắt vô cớ, có những hành
vi kỳ quặc đối với người con mới đẻ.
Rối loạn ăn uống:
- Chiếm 1,4% đối với chứng
chán ăn tâm thần.
- Chiếm 1,6% đối với chứng ăn
vô độ.
- Chiếm 3,7% đối với dạng hỗn
hợp của 2 rối loạn trên.
- Bệnh nhân mắc chứng ăn vô
độ dễ có nguy cơ sảy thai cao gấp 2 lần, nguy cơ cao về đái tháo đường, thai
nhẹ ký.
Rối loạn hoảng loạn:
- Chiếm tỉ lệ 1 - 2%.
- Nguy cơ cao về chuyển dạ
sớm và sinh non, nhiều nước ối, thiếu máu, thời gian mang thai tương đối ngắn.
Rối loạn lưỡng cực trong giai
đoạn hưng cảm tuy hiếm gặp:
- Nguy cơ cao như gia tăng
hoạt động tình dục, hoạt động thể lực quá mức, lạm dụng ma túy.
Thai phụ mang thai mà mắc
bệnh tâm thần phân liệt thì tỉ lệ sinh con rất thấp, kèm các bệnh lý mạn tính:
cao huyết áp, đái tháo đường, sinh non, thai nhẹ ký, thai chết lưu, thai nhi
hay bị khiếm khuyết về tim mạch.
Những rối loạn tâm thần sau
khi sinh
Lú lẫn, hoang tưởng cấp:
thường xảy ra trong khoảng 20 ngày đầu. Tiến triển nhanh từ ngày thứ 3, đột
ngột xuất hiện tình trạng lú lẫn, hoang tưởng (có thể cả mê mộng) tăng về chiều
tối. Hoang tưởng bị hại tập trung vào đứa con (cho là đứa con sinh ra không
phải của mình) đôi khi kèm theo trầm cảm - lo âu.
Rối loạn hành vi: thường sau
2 tuần sau khi sinh, sản phụ có biểu hiện như buồn rầu, khóc lóc vô cớ, mất
định hướng về không gian và thời gian, lo lắng quá mức vì sợ mắc bệnh hiểm
nghèo, ít chú ý đến vệ sinh cá nhân, ăn mặc lôi thôi, hành vi thô bạo, xúc phạm
người xung quanh. Nặng hơn, người mẹ có thể bỏ mặc con, hành hạ con thậm chí
giết hại hoặc tự sát. Sau khi bệnh ổn định thì người bệnh cũng không nhận thức
việc mình đã hành động.
Ngoài ra có thể gặp các rối
loạn mang tính chất tâm căn như nôn, buồn nôn. Nhất là mẹ mang thai trong 3
tháng đầu, một số khác thì tăng tiết nước miếng. Còn gặp tăng huyết áp do tăng
bài tiết aldosterol và estrogen, do tăng lưu lượng máu đến 30% trong những
tháng cuối thai kỳ.
Thường gặp là lo âu nhẹ,
chóng mặt, tức ngực, sợ chết khi đẻ, sợ sinh con bệnh tật... có thể giảm triệu
chứng này ở tháng thứ 4 và tái xuất hiện trạng thái lo âu trước khi sinh.
Vấn đề điều trị
Các rối loạn tâm căn thời kỳ
mang thai:
- Liệu pháp tâm lý nâng đỡ.
- Liệu pháp gia đình (chủ yếu
giải thích cho người chồng).
- Các thuốc giải lo âu (sau
tháng thứ 3).
Các rối loạn loạn thần sau đẻ
- lú lẫn, hoang tưởng:
- An thần kinh.
- Chống trầm cảm.
- Shock điện (nhất là khi có
nguy cơ tự sát và giết con).
Các rối loạn cảm xúc (trầm
cảm và hưng cảm):
- Chống trầm cảm và an thần
kinh.
- Nếu cần shock điện (tác
dụng nhanh và an toàn cho con).
Các biện pháp cần thiết:
- Nhập viện, tách mẹ và con
(để đảm bảo an toàn cho con).
- Loại trừ các nguyên nhân
phụ khoa (sót rau, nhiễm trùng...).
- Khi trạng thái của mẹ đã
thuyên giảm cần cho gặp con trước sự giám sát y tế để tái lập mối quan hệ mẹ -
con.
- Nếu điều kiện cơ sở cho
phép, nên cho cả mẹ lẫn con cùng nằm viện.
Các nguyên tắc sử dụng thuốc
hướng thần
Không cho thuốc hướng thần
trong 3 tháng đầu thời kỳ mang thai. Trong các tháng sau chỉ có khi thật cần
thiết, liều lượng thấp và theo dõi thận trọng. Ba tháng đầu tránh dùng các
thuốc chống trầm cảm, giải lo âu nếu phải dùng thuốc thì chọn loại có thời gian
bán hủy ngắn.
- Dùng liệu pháp đơn trị
liệu, không nên phối hợp nhiều loại thuốc.
- Không dùng lithium trong
thời kỳ có thai.
-Giảm liều thuốc trước khi sinh, phòng ngừa
suy hô hấp của thai nhi khi lọt lòng mẹ.
- Không sử dụng shock điện
khi mẹ mang thai và chỉ làm sau sinh đối với trầm cảm nặng.
Sự ảnh hưởng của thuốc điều
trị rối loạn tâm thần với thai nhi:
Việc dùng thuốc để điều trị
rối loạn tâm thần đương nhiên có ảnh hưởng đến thai nhi. Vấn đề ở chỗ khi bị
bệnh tâm thần, nhiều phụ nữ vẫn muốn sinh con hoặc mang thai ngoài ý muốn, cần
phải thảo luận với bác sĩ chuyên khoa tâm thần đang theo dõi và điều trị cho
mình.
Điều cần thiết phải ngừng sử
dụng thuốc khi có thai và phải có thời gian an toàn ít nhất là 1 tháng kể từ
lần uống thuốc cuối cùng đến thời điểm có thể thụ thai. Tốt nhất nên tránh sử
dụng thuốc trong 3 tháng đầu của thai kỳ vì đây là thời kỳ quan trọng nhất liên
quan đến quá trình hình thành và phát triển các cơ quan trong bào thai.
Trường hợp tình trạng bệnh lý
bắt buộc phải dùng các loại thuốc hướng thần thì tốt nhất nên sử dụng các loại
thuốc đã lưu hành lâu năm.
Khi mẹ dùng thuốc hướng thần
(sau đẻ) thì không cho con bú (vì thuốc hướng thần qua sữa).
Vấn đề phòng ngừa
Trong thời kỳ thai nghén, nếu
có rối loạn nhẹ, người mẹ cần được động viên, nâng đỡ của chồng và gia đình,
cần được nghỉ ngơi, làm việc nhẹ nhàng; nếu có các rối loạn tâm thần nặng cần
đưa đến khám tại cơ sở chuyên khoa tâm thần.
Chọn thời điểm thích hợp để
cho mẹ gần con và chăm sóc con, phải có sự theo dõi, giúp đỡ của thầy thuốc
chuyên khoa tâm thần, tâm lý trị liệu.
Chồng và người thân cần quan
tâm, động viên để họ vượt qua giai đoạn khó khăn.
Ở thời kỳ sau sinh, nếu bị
trầm cảm nhẹ khi được động viên, nâng đỡ thì phần lớn sẽ trở lại bình thường,
nếu bị trầm cảm nặng cần có chỉ định dùng thuốc chống trầm cảm.
- Khi có rối loạn hành vi
kích động dữ dội hoặc trầm cảm nặng cần nhập viện để được điều trị, cách ly đảm
bảo an toàn cho con. Khi bệnh tạm ổn, người mẹ cần được nâng đỡ để tránh mặc
cảm.
- Không cho con bú (vì thuốc
hướng thần qua sữa).
- Loại trừ các nguyên nhân
phụ khoa (nhiễm trùng, sót nhau).
Tùy tình trạng mang thai từng
thời kỳ tiến hành liệu pháp tâm lý nâng đỡ, liệu pháp gia đình (chủ yếu giải
thích cho người chồng).
Mẹ sốt khi mang thai con dễ
bị tự kỷ hoặc chậm phát triển tâm thần cao gấp đôi.
Trước khi có con, các cặp vợ
chồng cần được hướng dẫn về tình trạng sức khỏe nhu cầu tâm lý của người mẹ
trong giai đoạn thai kỳ và hậu sản, cách chăm sóc em bé để người chồng có thể
hỗ trợ vợ một cách tốt nhất.
Người mẹ nên đi khám thai
định kỳ và cần được theo dõi trong thời kỳ hậu sản.
ThS. BS. NGUYỄN NGỌC QUANG
0 nhận xét:
Đăng nhận xét