Bình thường, nước ối hoàn toàn nằm trong buồng ối, không đi vào
tuần hoàn của người mẹ. Một khi hàng rào ngăn cách giữa khoang ối và
tuần hoàn của người mẹ bị phá vỡ, có thể do sự chênh lệch áp lực làm cho
nước ối đi vào hệ thống tĩnh mạch của người mẹ (xoang tĩnh mạch tử
cung) một cách bất thường qua các tĩnh mạch ống cổ tử cung, qua vị trí
rau bám (nếu đã bong rau), qua nội mạc tử cung hay qua nơi tử cung bị
chấn thương.
Ảnh minh họa (nguồn Internet)
|
Có 3 hoàn cảnh làm cho nước ối đi vào tuần hoàn của người mẹ: Vỡ ối, vỡ tĩnh mạch tử cung hay tĩnh mạch cổ tử cung và áp lực buồng tử cung cao hơn áp lực tĩnh mạch.
Tắc
mạch ối xảy ra khi nước ối, tế bào thai nhi, bọt khí, chất gây, tóc
hoặc các mảnh tổ chức thai khác lọt vào hệ tuần hoàn của mẹ gây ra suy
hô hấp và tuần hoàn cấp tính. (nguồn:http://w.w.w.netterimages.com)
|
Tiêu chuẩn chẩn đoán tắc mạch ối
Khi có đồng thời 4 tiêu chuẩn sau: Tụt
huyết áp đột ngột hay ngừng tim; Thiếu ôxy cấp tính; Bệnh lý đông máu
hay chảu máu nặng mà không có các lý giải khác; Tất cả xảy ra trong
chuyển dạ, mổ lấy thai hay trong vòng 30 phút sau đẻ mà không có lý giải
nào khác cho các dấu hiệu này. Ngoài ra, thực hiện các xét nghiệm: xét
nghiệm khí trong máu; công thức máu; đông máu; Xquang phổi: thường không
tìm thấy dấu hiệu đặc hiệu, có thể quan sát thấy dấu hiệu phù phổi;
điện tâm đồ: có thể thấy nhịp tim nhanh, phần ST và song T thay đổi.
|
Nếu người bệnh thoát qua được giai đoạn này (khoảng 40% số trường
hợp) sẽ có biểu hiện chảy máu dữ dội nhiều nơi do đờ tử cung (nếu sau
đẻ) và do đông máu rải rác trong lòng mạch. Chảy máu từ tử cung không
thể cầm được. Chảy máu từ các vết chọc kim, catheter, chọc tủy sống hay
ngoài màng cứng. Tình trạng rối loạn đông máu nặng nề có thể liên quan
đến thromboplastin có trong nước ối đã hoạt hóa quá trình đông máu, làm
cho hoạt động tiêu sợi huyết trở nên quá mức. Số trường hợp có biểu hiện
phù phổi ở giai đoạn này cũng cao.
Yếu tố nguy cơ gây tắc mạch ối Tắc mạch ối có thể xảy ra ở bất cứ thai phụ nào trong cuộc đẻ hoặc mổ lấy thai sau đẻ... Tuổi sản phụ cao thì nguy cơ bị tắc mạch ối nhiều hơn. Tuổi mẹ từ 35 trở lên kéo theo nguy cơ cao bị tắc mạch ối. Con rạ có nguy cao hơn con so. Người ta thấy 75% số trường hợp tắc mạch ối xảy ra ở người đẻ con rạ. Về giới tính của thai: 67% số trường hợp tắc mạch ối là mang thai trai. Mổ lấy thai, đẻ đường dưới có can thiệp thủ thuật foóc-xép hay giác kéo có nguy cơ cao hơn đẻ thường. Đa ối, đa thai (tử cung quá to), thai chết lưu, vỡ ối, rách cổ tử cung, vỡ tử cung, rau tiền đạo, rau bong non, sản giật, gây chuyển dạ cũng là yếu tố nguy cơ gây tắc mạch ối.
Chọc hút nước ối có thể gây tắc mạch ối.
|
Hiện nay, các nhà khoa học đang hướng sự chú ý tới sự phân rã nhân
các tế bào khổng lồ, giải phóng các histamin và các enzym tryptase, đồng
thời hoạt hóa chuỗi phản ứng phức tạp khác. 75% số trường hợp bị tắc
mạch ối là xảy ra ở người con rạ, liệu có thể có vai trò phản ứng dị ứng
mẫn cảm với kháng nguyên của thai trong những lần đẻ trước để lần sinh
sau xảy ra hiện tượng đáp ứng miễn dịch nhắc lại. 67% số trường hợp tắc
mạch ối là mang thai trai, liệu có vấn đề dị ứng? 41% số người bệnh có
tiền sử dị ứng.
Cần chẩn đoán phân biệt với rất nhiều hội chứng khác:
tắc mạch do huyết khối, tắc mạch do khí, choáng nhiễm khuẩn, nhồi máu
cơ tim cấp tính, choáng phản vệ do các nguyên nhân khác nhau, rau bong
non hay phản ứng của gây tê vùng. Chẩn đoán xác định sau cùng là kết quả
mổ tử thi (tìm thấy tế bào của thai và thành phần nước ối trong động
mạch phổi người mẹ) cùng với biểu hiện lâm sàng dữ dội, đặc trưng. Do
vậy sẽ rất khó chẩn đoán trong thể bệnh trung bình.Tóm lại, thai nghén và sinh nở là hiện tượng sinh lý bình của người phụ nữ. Nhưng các trường hợp đó rất dễ dàng chuyển sang tình trạng bệnh lý dẫn đến cái chết của thai phụ, trong đó tắc mạch ối tuy ít gặp nhưng là cấp cứu sản khoa không thể dự báo được, trong hầu hết các trường hợp là không thể điều trị được.
BS.Nguyễn Kim Dung
0 nhận xét:
Đăng nhận xét