Thai nghén và sinh nở là những hiện tượng sinh lý bình thường của người phụ nữ, nhưng các trường hợp đó dễ dàng biến chuyển sang tình trạng bệnh lý dẫn tới cái chết của thai phụ, trong đó nổi bật lên là các tai biến: vỡ tử cung, sản giật, nhiễm khuẩn, chảy máu. Sau đây, báo Sức khỏe&Đời sống xin giới thiệu về nguyên nhân, các dấu hiệu lâm sàng và cách theo dõi xử trí cũng như phòng tránh các tai biến này.
Vỡ tử cung
Có nhiều nguyên nhân gây vỡ tử cung, có nguyên nhân thuộc về người mẹ, có nguyên nhân thuộc về thai nhi.
Về phía người mẹ: Khung chậu hẹp, méo mó làm đầu thai nhi không chui lọt để ra ngoài; Mẹ có khối u ở đoạn dưới tử cung, ở cổ tử cung, ở đường sinh dục dưới, khối u này chặn đường ra của thai; Mẹ đã đẻ nhiều lần nên tử cung mỏng, nhão, các cơn co mạnh gây vỡ, rách lớp cơ đoạn dưới tử cung; Mẹ có vết mổ cũ ở tử cung (mổ tử cung lấy thai, mổ cắt bóc khối u ở tử cung) nên vết sẹo tử cung trở thành nơi yếu nhất, cơn co tử cung mạnh có thể làm toác vết mổ gây vỡ tử cung.
Về phía thai nhi: Thai nhi to quá không chui lọt qua khung chậu mặc dù khung chậu bình thường; Thai nhi dị dạng có đầu to quá mức do não úng thủy nên không qua được khung chậu; Thai nằm trong tử cung theo tư thế không bình thường như thai nằm ngang (ngôi ngang), thai không cúi đầu cũng không ngửa mặt lên (ngôi trán), thai đưa mặt ra trước nhưng cằm lại quay về phía xương cùng của người mẹ (ngôi mặt cằm sau). Các tư thế bất thường này làm cho thai không chui qua khung chậu để ra ngoài được trong khi các cơn co dồn dập cứ thúc thai nhi xuống gây vỡ tử cung.
Tử cung có thể bị vỡ khi làm các thủ thuật kéo thai, xoay thai, cặp và kéo foóc-xép trong điều kiện không thuận lợi, không đúng quy định.
Khung chậu hẹp, đầu thai thi to không lọt là nguyên nhân gây vỡ tử cung
Hình ảnh vỡ tử cung hoàn toàn
|
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), mỗi năm, trên thế giới có khoảng 80 triệu ca đẻ, trong đó có 10 triệu ca có tai biến và 358.000 trường hợp tử vong mẹ, tương đương với hơn 1.000 trường hợp tử vong mẹ xảy ra trong một ngày. Ở Việt Nam, tình trạng sức khỏe bà mẹ, trẻ em đã ngày càng được cải thiện, tử vong mẹ và tử vong trẻ em đã giảm trong những năm gần đây. Tỷ số tử vong mẹ giảm 3 lần, từ mức 233/100.000 trẻ đẻ sống năm 1990 xuống còn 69/100.000 trẻ đẻ sống vào năm 2009. Mặc dù tử vong mẹ đã giảm nhưng ước tính mỗi năm nước ta vẫn còn từ 690-700 ca tử vong mẹ, tức là trung bình khoảng 2 ca tử vong mẹ/ngày.
|
Nghe tim thai thấy tim thai nhanh hoặc chậm hoặc không đều. Vòng thắt này (còn gọi vòng bande) ngày càng rõ rệt. Vòng thắt này chính là ranh giới giữa thân tử cung và đoạn dưới tử cung và tử cung sẽ vỡ dưới vòng thắt... Khi phát hiện thấy các triệu chứng dọa vỡ tử cung, phải tiêm ngay thuốc giảm co và lấy thai ra ngay bằng foóc-xép nếu có chỉ định và đầy đủ điều kiện. Nếu không đủ điều kiện lấy thai ra phải chuyển sản phụ đi tuyến trên ngay.
Nếu ta không phát hiện kịp thời, dọa vỡ tử cung không được xử trí sẽ dẫn tới vỡ tử cung. Biểu hiện: Cơn co tử cung ngày một dồn dập, sản phụ đau tăng lên dữ dội rồi tự nhiên giảm đau. Khi đó tử cung đã vỡ nên mất hẳn cơn co hoặc cơn co chỉ còn rất nhẹ, hình dáng tử cung thay đổi, không còn hình dạng bình thường, không còn dấu hiệu vòng bande.
Bụng chướng, nắn đau có thể sờ ngay thấy thai nhi dưới da bụng người mẹ (nếu vỡ tử cung dưới phúc mạc thì không có dấu hiệu này). Tim thai mất hoặc đập rất yếu. Ra máu âm đạo. Nếu thăm âm đạo sẽ không xác định được ngôi thai. Vì tử cung vỡ nên máu sẽ chảy ồ ạt vào trong ổ bụng làm cho sản phụ bị choáng, mặt nhợt nhạt, thở nông, vã mồ hôi, chân tay lạnh, mạch nhỏ và nhanh, huyết áp tụt thấp, sản phụ có thể chết ngay vì choáng và chảy máu.
Cách xử trí
Phải theo dõi thật sát các sản phụ đang chuyển dạ để phát hiện sớm dọa vỡ tử cung. Nếu cơn co quá nhanh và dồn dập thì tiêm ngay thuốc giảm co tử cung và tìm xem có nguyên nhân đẻ khó nào không. Nếu sản phụ bị vỡ tử cung thì phải chuyển ngay lên tuyến trên thật nhẹ nhàng và nhanh chóng hoặc mời tuyến trên về mổ lấy thai và khâu hoặc cắt tử cung ngay để cầm máu.
Đề phòng vỡ tử cung
Làm tốt công tác đăng ký quản lý thai nghén. Mọi thai phụ phải đến đẻ tại nhà hộ sinh xã (trạm y tế). Người nữ hộ sinh và y sĩ xã phải biết phát hiện sớm các nguyên nhân có thể gây vỡ tử cung để gửi các thai phụ này đến đẻ tại các cơ sở y tế có trung tâm phẫu thuật.
Phải theo dõi thật sát các sản phụ đang chuyển dạ để tiên lượng được các ca đẻ khó và gửi đi tuyến trên thật kịp thời. Phải rất cẩn thận khi dùng thuốc tăng co tử cung vì dùng trước khi thai ra có thể gây vỡ tử cung. Không được kéo thai, xoay thai, cặp foóc-xép nếu chưa được huấn luyện, nếu không có chỉ định và không đủ điều kiện kỹ thuật.
Mời các bạn xem tiếp kỳ sau
BSCKII. Nguyễn Thị Kim Dung
0 nhận xét:
Đăng nhận xét